Xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc giúp sầu riêng vươn lên ‘ngôi sao mới’ ngành trái cây, mở ra hướng phát triển bền vững và đặt nền móng cho việc xây dựng thương hiệu quốc gia.
Những năm gần đây, xuất khẩu nông sản ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực, đặc biệt ở nhóm hàng trái cây. Nhiều sản phẩm chủ lực như sầu riêng, chanh leo, thanh long, chuối… đã mở cửa thành công vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… và mới đây là Australia.
Theo ông Võ Tấn Lợi, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng tỉnh Tiền Giang, thành tựu này đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho ngành trái cây nói chung và sầu riêng nói riêng.
“Từ khi được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc, giá trị kim ngạch của sầu riêng tăng trưởng vượt bậc, mang lại nguồn thu lớn cho nông dân và doanh nghiệp. Năm 2024, sầu riêng đã trở thành mặt hàng trái cây xuất khẩu có giá trị cao nhất trong nhóm nông sản, vượt xa kỳ vọng của nhiều người”, ông Lợi chia sẻ.
Mặc dù vậy, ngành hàng này cũng đối mặt không ít thách thức. Thị trường nhập khẩu ngày càng khắt khe, đòi hỏi sản xuất phải theo quy trình nghiêm ngặt từ mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, đến tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. “Chúng ta không thể xem việc mở cửa thị trường là đích đến cuối cùng mà phải coi đó là động lực để sản xuất chuyên nghiệp và bền vững hơn”, ông nhấn mạnh.
Vươn lên hàng ngũ chủ lực
Từ một sản phẩm đặc sản bản địa, sầu riêng vươn lên hàng ngũ các nông sản xuất khẩu chủ lực, sánh cùng gạo, cà phê, hạt điều hay thủy sản. Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, giá trị xuất khẩu sầu riêng đã tăng từ vài trăm triệu USD trước năm 2022 lên hơn 2 tỷ USD/năm, tốc độ tăng trưởng ấn tượng nhất trong nhóm trái cây.
Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc được ký kết đã mở ra cánh cửa rộng lớn giúp sầu riêng Việt Nam cạnh tranh trực tiếp với Thái Lan, Malaysia hay Philippines.
“Nước ta có lợi thế tự nhiên hiếm có, khí hậu đa dạng, đất đai màu mỡ và khả năng canh tác sầu riêng quanh năm ở nhiều vùng sinh thái. Giống sầu riêng Ri6, Dona trồng ở ĐBSCL, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ cho hương vị đặc trưng và cơm dày, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng châu Á. Điều quan trọng là sản phẩm không chỉ có giá cạnh tranh mà còn được đánh giá cao về chất lượng”, ông Lợi nhận định.
Bốn “trụ cột” tạo đà bứt phá
Ông Võ Tấn Lợi cho rằng, sự tăng trưởng vượt bậc của sầu riêng Việt Nam không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của nhiều yếu tố đồng thời.
- Thứ nhất là chính sách mở cửa. Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc năm 2022 được xem là bước ngoặt quan trọng, giúp bứt phá mạnh về quy mô và giá trị. Việc Nhà nước đẩy mạnh xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc cũng tạo nền tảng pháp lý vững chắc.
- Thứ hai là lợi thế tự nhiên. Nước ta có thể trồng sầu riêng quanh năm tại nhiều vùng khác nhau, từ Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai đến Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ. Điều này giúp nguồn cung ổn định, giảm rủi ro mùa vụ.
- Thứ ba là vai trò của các hiệp hội. Hiệp hội Sầu riêng Tiền Giang cùng các tổ chức ngành hàng khác đã trở thành cầu nối giữa nông dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Các chương trình tập huấn kỹ thuật, xúc tiến thương mại được triển khai thường xuyên.
- Thứ tư là nhu cầu thị trường. Người tiêu dùng châu Á sẵn sàng chi trả cao cho trái cây tươi ngon, có nguồn gốc rõ ràng. Xu hướng này tạo động lực lớn để ngành sầu riêng nước ta tiếp tục nâng cao chất lượng.
Thách thức và yêu cầu bức thiết về chế biến
Bên cạnh thành tựu, ngành trái cây vẫn đối mặt nhiều vấn đề căn cơ.
Trước hết là chất lượng sản phẩm chưa đồng đều, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ. Một số vùng phát triển diện tích ồ ạt vượt khả năng kiểm soát mã số vùng trồng, dẫn đến tình trạng bị cảnh báo hoặc tạm ngưng nhập khẩu.
Thứ hai, năng lực chế biến và bảo quản sau thu hoạch còn yếu. Phần lớn sầu riêng vẫn xuất khẩu tươi, tỷ lệ chế biến sâu rất thấp. Hệ thống kho lạnh, công nghệ cấp đông và logistics lạnh chưa đáp ứng yêu cầu, làm giảm giá trị sản phẩm.
“Muốn phát triển bền vững, chúng ta phải đầu tư mạnh vào công nghệ chế biến, xây dựng nhà máy cấp đông, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng như sầu riêng đông lạnh, kem, bánh, nước giải khát…”, ông Lợi đề xuất.
Ngoài ra, việc phụ thuộc quá lớn vào một thị trường (Trung Quốc) luôn tiềm ẩn rủi ro. Giải pháp là đa dạng hóa thị trường sang Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu, Trung Đông, Mỹ; đồng thời chuẩn hóa chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Trong khu vực, Thái Lan (với thương hiệu Monthong) và Malaysia (Musang King) vẫn là những “ông lớn”. Nước ta có lợi thế về chi phí sản xuất, vị trí địa lý và khả năng cung ứng quanh năm. Tuy nhiên, điểm yếu là thương hiệu quốc gia còn non trẻ và chất lượng chưa thật đồng đều.
Hướng tới xây dựng thương hiệu quốc gia
Hiệp hội Sầu riêng Tiền Giang đang tập trung đào tạo kỹ thuật canh tác bền vững, hỗ trợ xây dựng mã số vùng trồng, chứng nhận VietGAP/GlobalGAP, và thúc đẩy liên kết chuỗi.
Ông Võ Tấn Lợi gửi gắm thông điệp: “Đừng xem xuất khẩu là may rủi, hãy biến nó thành một hệ thống. Chỉ khi tất cả các khâu, từ sản xuất đến tiêu thụ, đều được tổ chức bài bản và truy xuất rõ ràng, chúng ta mới có thể đứng vững trên thị trường quốc tế”.
Từ thành công bước đầu, đã đến lúc Việt Nam cần xây dựng chiến lược thương hiệu quốc gia cho sầu riêng. Khi thương hiệu được định vị rõ ràng, mỗi trái sầu riêng không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là biểu tượng cho chất lượng và uy tín của nông sản Việt trên thị trường toàn cầu.
(Theo Minh Đảm)












![[Sách] 100 Câu hỏi & đáp về kỹ thuật cà phê 100 câu hỏi & đáp về kỹ thuật cà phê](https://i0.wp.com/nghenong.com/wp-content/uploads/2025/11/100-cau-hoi-dap-ve-ky-thuat-ca-phe.jpg?resize=100%2C75&ssl=1)

