Blog

  • Ngăn chặn khai thác sò lông non

    Tỉnh Bình Thuận chỉ đạo ngăn chặn tình trạng khai thác sò lông non bởi đây là hành vi tận diệt, chỉ lợi trước mắt nhưng làm suy kiệt nguồn lợi thủy sản.

    Từ giữa tháng 11 đến nay, nhiều tàu thuyền nghề lặn trong tỉnh Bình Thuận đã đánh bắt sò lông non với kích cỡ từ 2 – 3cm, trọng lượng từ 100 – 120 con/kg. Sau đó, các tàu tập kết tại các khu vực bãi ngang, kè, cảng cá thuộc địa bàn huyện Tuy Phong và TP Phan Thiết để bán cho thương lái thu mua.

    Theo Sở NN-PTNT Bình Thuận, tình trạng khai thác, tiêu thụ sò lông non đang diễn ra là hành vi điển hình về tận diệt nguồn lợi thủy sản. Việc này chỉ lợi ích trước mắt nhưng gây thiệt hại lớn về kinh tế, cũng như làm suy kiệt nguồn lợi sò lông (Anadara antiquata line) – loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ đặc thù có giá trị kinh tế cao của vùng biển tỉnh Bình Thuận.

    Ngăn chặn khai thác sò lông non

    Tỉnh Bình Thuận đang nỗ lực bảo vệ nguồn lợi thủy sản, ngăn chặn khai thác sò lông non. Ảnh: VM.

    Hơn nữa, việc ngư dân tập trung đánh bắt sò lông non đang trong thời kỳ sinh trưởng còn do một số doanh nghiệp thu mua với số lượng lớn để bán làm thức ăn cho người nuôi tôm hùm tại các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên. Riêng tại khu chế biến Nam cảng cá Phan Thiết có Công ty TNHH Cát Vàng thu gom, mua, vận chuyển, tiêu thụ sò lông lên đến hàng chục tấn mỗi ngày.

    Cũng theo Sở NN-PTNT Bình Thuận, sở dĩ tình trạng khai thác và tiêu thụ sò lông non diễn ra công khai bởi có sự thay đổi về quy định bảo vệ nguồn lợi thủy sản hiện hành so với các văn bản pháp luật đã ban hành trước đây.

    Theo đó, Luật Thủy sản 2017 và các nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ NN-PTNT không có quy định về kích thước khai thác tối thiểu đối với loài sò lông. Bởi sò lông không thuộc danh mục loài thủy sản nguy cấp, quý hiếm.

    Do vậy, lực lượng kiểm ngư, thanh tra thủy sản và các cơ quan chức năng không có cơ sở pháp lý để xử lý, xử phạt hành vi khai thác, tiêu thụ, vận chuyển sò lông non.

    Trước tình hình trên, mới đây, UBND tỉnh Bình Thuận đã có văn bản gửi Sở NN-PTNT và các địa phương vùng biển về việc khẩn trương, kịp thời ngăn chặn tình trạng khai thác sò lông non trên vùng biển của tỉnh.

    Cụ thể, UBND tỉnh giao Sở NN-PTNT chỉ đạo lực lượng kiểm ngư phối hợp với lực lượng biên phòng thực hiện quyết liệt việc kiểm tra điều kiện hành nghề của tàu cá hoạt động nghề lặn; không cho phép xuất bến nếu không đảm bảo điều kiện hành nghề; xử lý nghiêm vi phạm. Đồng thời điều động tàu xuồng kiểm ngư kiểm tra thường xuyên các khu vực bãi sò lông để ngăn chặn kịp thời hành vi khai thác sò lông non, hủy diệt nguồn lợi thủy sản.

    Ngăn chặn khai thác sò lông non

    Vùng biển Bình Thuận có nhiều loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ đặc thù có giá trị kinh tế cao. Ảnh: KS.

    Bên cạnh đó, Sở NN-PTNT chỉ đạo Ban Quản lý các cảng cá tỉnh không cho phép tàu thuyền lặn bắt sò lông non cập các cảng cá bốc dỡ, tiêu thụ, gây hình ảnh phản cảm.

    Sở NN-PTNT chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp nghiên cứu quy định về trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tại điểm a khoản 5 Điều 13 Luật Thủy sản 2017 và các thông tư hướng dẫn của Bộ NN-PTNT để tham mưu UBND tỉnh quy định bổ sung vùng cấm khai thác có thời hạn đối với các bãi tập trung sò lông sinh sản, sinh trưởng và các loài hải sản đặc thù như điệp quạt, dòm nâu, nghêu lụa. Từ đó xin ý kiến Bộ NN-PTNT để ban hành ngay đầu năm 2024 nhằm bảo vệ nguồn lợi sò lông và các loài hải sản đặc thù có giá trị kinh tế cao của tỉnh.

    UBND các huyện, thị xã, thành phố vùng biển chỉ đạo các lực lượng chức năng trên địa bàn, Hội Cộng đồng ngư dân tăng cường kiểm tra hoạt động khai thác, tập kết, tiêu thụ sò lông non tại các bến, bãi ngang trên địa bàn. Từ đó tuyên truyền ngư dân không khai thác sò lông non, tận diệt nguồn lợi thủy sản, gây thiệt hại kinh tế và sinh kế lâu dài của ngư dân.

    Lực lượng công an được phối hợp với cơ quan chuyên ngành thủy sản nắm tình hình, làm việc với các cơ sở thu mua sò lông non bán làm thức ăn cho tôm hùm để tuyên truyền và yêu cầu dừng ngay việc mua sò lông non, tận diệt nguồn lợi, gây thiệt hại kinh tế.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Giá heo hơi xuống mức thấp nhất năm, người chăn nuôi không có lãi

    Cục Chăn nuôi nhận định với mức giá heo 48.000 đồng/kg trong nửa đầu tháng 12, người chăn nuôi hầu như không có lãi, thậm chí thua lỗ.

    Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho biết kể từ đầu tháng 12 đến nay, giá bán heo hơi dao động 48.000 đồng/kg, mức thấp nhất trong năm 2023. Trong khi đó, giá thành sản xuất hiện ở mức 45.000-52.000 đồng/kg. Với mức giá này, người chăn nuôi hầu như không có lãi, thậm chí thua lỗ.

    Hiện nay, mức giá heo hơi của Việt Nam tương đương giá heo hơi tại Thái Lan nhưng thấp hơn Trung Quốc 1.000-3.000 đồng/kg và cao hơn giá heo tại Campuchia khoảng 5.000-8.000 đồng/kg.

    Giá heo hơi xuống mức thấp nhất năm, người chăn nuôi không có lãi

    (Nguồn: Anova Feed, Đồ họa: Hoàng Anh)

    Cục Chăn nuôi cho biết trong năm 2023, nhiều thời điểm giá bán heo hơi đi ngang hoặc thấp hơn giá thành chủ yếu do sức mua thực phẩm của người dân giảm nhẹ so với trước đây do thu nhập của người dân bị ảnh hưởng bởi lạm phát gia tăng. Ngoài ra, sức tiêu thụ thực phẩm của các khu công nghiệp giảm mạnh do nhiều công ty giảm quy mô sản xuất.

    Sức cầu yếu, song nguồn cung heo thịt trong nước lại tăng vào các tháng cuối năm, tình hình chăn nuôi của các doanh nghiệp và trang trại vẫn ổn định.

    Cục Chăn nuôi cho biết tính đến hết 30/11, cả nước xuất hiện hơn 530 ổ bệnh dịch tả heo châu Phi nhưng chủ yếu tập trung ở các hộ chăn nuôi nhỏ, số heo dịch buộc tiêu hủy chỉ chiếm khoảng 0,04% tổng đàn heo, tương ứng hơn 20.000 con. Tuy vậy, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp lên tâm lý người chăn nuôi và người tiêu dùng, kéo giá heo hơi đi xuống.

    Một nguyên nhân khác được Cục Chăn nuôi chỉ ra là lượng thịt heo nhập khẩu tăng liên tục trong nửa cuối năm 2023.

    Cùng với đó, tình trạng nhập lậu heo sống, sản phẩm thịt heo qua khu vực đường mòn, lối mở vẫn diễn ra tại một số địa phương, gây áp lực đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm thịt heo sản xuất trong nước do phải cạnh tranh sản phẩm nhập lậu giá rẻ, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch bệnh đối với chăn nuôi heo trong nước.

    Cục Chăn nuôi nhận định thị trường Việt Nam chưa có cơ chế đảm bảo công bằng, chia sẻ lợi nhuận của các tác nhân trong chuỗi giá trị thịt heo.

    “Giá heo hơi tại cổng trại giảm nhưng giá thịt tại các siêu thị, các cơ sở/điểm bán lẻ không đồng pha. Điều này có lợi cho thương lái, chủ lò mổ và người bán lẻ thịt nhưng không có lợi cho cơ sở chăn nuôi và người tiêu dùng thực phẩm”, Cục Chăn nuôi nêu.

    Hoàng Anh

    Nguồn: VietNam Biz

  • Lô cà phê mộng dừa đầu tiên sang thị trường Hoa Kỳ

    Bến Tre Ngày 19/12, lô hàng cà phê hòa tan mộng dừa CT3 4in1 đầu tiên của Công ty TNHH Thương mại và sản xuất Dừa Bentre (Bentrecorp) chính thức lên đường sang thị trường Hoa Kỳ.

    Lô cà phê mộng dừa đầu tiên sang thị trường Hoa Kỳ

    Cà phê hoà tan mộng dừa CT3 4in1 đầu tiên của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Ảnh: Minh Đảm.

    Ông Lý Thái Hồng Minh, Giám đốc Bentrecorp cho biết, ngày 13/12/2023 vừa qua, công ty đã chính thức hoàn tất các thủ tục thông quan để đưa lô hàng đầu tiên sản phẩm cà phê hòa tan mộng dừa CT3 4in1 qua thị trường Hoa Kỳ.

    Dự kiến ngày 7/1/2024 sẽ đến Los Angeles, chính thức đưa sản phẩm đầu tiên chứa chất Saponin tự nhiên có trong mộng dừa Bến Tre xuất khẩu, góp phần đưa vào danh sách các đặc sản của tỉnh Bến Tre vươn ra tầm thế giới.

    Với tiêu chí xây dựng thương hiệu mạnh, bền vững, sản xuất ra những sản phẩm đạt chất lượng cao, ngay từ khi bắt đầu, Bentrecorp đã xác định việc cho ra đời các sản phẩm dựa trên các tiêu chuẩn khắt khe cả về hình thức lẫn chất lượng đều phải đảm bảo các quy định theo chuẩn FDA, Nutrition facts về thực phẩm cũng như các tiêu chuẩn ISO 22000, HACCP kiểm soát mối nguy và an toàn vệ sinh thực phẩm

    Giờ đây, người tiêu dùng phương xa đã có thể thưởng thức được hương vị quê nhà cũng như tạo thêm thói quen mới tốt cho sức khỏe thông qua việc dùng sản phẩm cà phê hòa tan mộng dừa CT3 4in1 mỗi ngày.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Chăn nuôi bò thịt đang rất khó khăn

    Theo ông Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, chăn nuôi bò thịt đang đối diện với nhiều khó khăn, việc đưa ra các giải pháp tháo gỡ là vô cùng cần thiết.

    Ông Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục Chăn nuôi chia sẻ, hội nghị được tổ chức với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học, cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội… nhằm xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động chăn nuôi bò thịt của Việt Nam, chỉ rõ những khó khăn, tồn tại, thách thức.

    Từ đó, đưu ra những giải pháp để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy chăn nuôi bò thịt phát triển bền vững.

    Chăn nuôi bò thịt đang rất khó khăn

    Theo ông Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, chăn nuôi bò thịt đang đối diện với nhiều khó khăn, việc đưa ra các giải pháp tháo gỡ là vô cùng cần thiết. Ảnh: Trung Quân.

    Ngày 19/12, Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT) tổ chức Hội nghị “đánh giá thực trạng và định hướng phát triển chăn nuôi bò thịt của Việt Nam”.

    Theo Cục Chăn nuôi, hiện hoạt động chăn nuôi bò thịt của Việt Nam đang đối diện với nhiều khó khăn như tỷ suất đầu tư lớn, chu kỳ sản xuất dài, thời gian thu hồi vốn chậm.

    Chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán chiếm tỷ lệ cao, trong khi chăn nuôi theo chuỗi liên kết lại chiếm tỷ trọng thấp.

    Việt Nam hội nhập kinh tế, tham gia vào các hiệp định thương mại nên áp lực cạnh tranh của các sản phẩm chăn nuôi bò thịt tăng lên.

    Diện tích chăn thả hạn chế, việc chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn…

    Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, vẫn có những cơ hội và yếu tố thuận lợi để chăn nuôi bò thịt phát triển nếu nắm bắt tốt như hành lang pháp lý về quản lý ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, có tính hội nhập cao.

    Ngày càng có nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vốn, công nghệ, năng lực quản trị vào ngành chăn nuôi.

    Hội nhập kinh tế tạo cơ hội cho ngành chăn nuôi tiếp cận được những công nghệ mới về giống, thức ăn, phương thức quản lý. Nhu cầu trong nước về sản phẩm gia súc ăn cỏ ngày càng tăng nhất là đối với thịt bò…

    Trên cơ sở đó, ngành chăn nuôi đặt ra mục tiêu đến năm 2030, đàn bò thịt ổn định ở quy mô từ 6,5 – 6,6 triệu con. Sản lượng thịt xẻ đạt 10-11% (tổng các loại). Có khoảng 30% số lượng bò được nuôi trong trang trại.

    Ngoài ra, phát triển chăn nuôi bảo đảm an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, thân thiện với môi trường, cung cấp sản phẩm chất lượng, an toàn thực phẩm.  

    Chăn nuôi bò thịt đang rất khó khăn

    Tại hội nghị, các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến và giải pháp nhằm giúp phát triển chăn nuôi bò thịt bền vững. Ảnh: Trung Quân.

    Tại hội nghị, các đại biểu đều cho rằng, muốn chăn nuôi bò thịt của Việt Nam phát triển trước hết cần có sự điều chỉnh về về chính sách hỗ trợ theo hướng những gì người dân đã làm được thì không hỗ trợ, mà tập trung nguồn lực hỗ trợ những gì người dân chưa làm được.

    Bởi lẽ, nuôi bò thịt thường dài ngày, vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, trong khi không phải hộ nào cũng có đủ nguồn lực để duy trì.

    Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, đào tạo nghề, hướng dẫn nông dân các biện pháp chăn nuôi an toàn, tiết kiệm chi phí, xúc tiến thương mại…

    Đặc biệt, Bộ NN-PTNT cần có những động thái mạnh mẽ hơn đối với từng địa phương trong việc quan tâm, xây dựng quy hoạch, tạo điều kiện về quỹ đất xây dựng chuồng trại, trồng cỏ, cơ sở giết mổ, chế biến… để các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất có thêm không gian đầu tư, phát triển chăn nuôi bò thịt bền vững.

    Đồng thời, phải ngăn chặn được việc nhập lậu bò thịt từ các nước qua biên giới, xây dựng tiêu chuẩn nhập khẩu đối với bò sống và thịt bò từ các nước.

    Về thức ăn, ngoài việc mở rộng được diện tích trồng cỏ thì việc quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu, giá bán, chất lượng các loại nguyên liệu, thức ăn tinh, chất cấm trong chăn nuôi cũng cần được đẩy mạnh, đảm bảo người nuôi có cơ hội tiếp cận được với các sản phẩm tốt nhất với chi phí hợp lý.

    Về con giống, hiện nay có nhiều nguồn giống trong nước và nhập khẩu, nhưng giống năng suất, chất lượng phù hợp với từng phân khúc thị trường chưa được phân định rõ.

    Bên cạnh đó, chúng ta mới có 2 cơ sở tự sản xuất được nguồn tinh trong nước là Trung tâm Giống gia súc lớn Trung ương (Viện Chăn nuôi) và Công ty Cổ phần Giống gia súc Hà Nội, còn lại tinh bò nhập khẩu.

    Chăn nuôi bò thịt đang rất khó khăn

    Các địa phương cần xây dựng quy hoạch, tạo điều kiện về quỹ đất xây dựng chuồng trại, trồng cỏ, cơ sở giết mổ, chế biến… để các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất có thêm không gian đầu tư, phát triển chăn nuôi bò thịt bền vững. Ảnh: Trung Quân.

    Trong các loại tinh bò nhập khẩu thì tinh bò 3B khi đưa về được nhiều hộ sử dụng vì sức tăng trọng và năng suất của bò cao. Tuy nhiên, tinh bò này có mặt yếu là chỉ sử dụng con lai có máu Zebu cao trên 75% làn nền lai tạo, sau đó được vỗ béo và đưa vào giết thịt.

    Việc này khiến cho việc di truyền các tính trạng tốt cho đời sau và sử dụng con cái làm nền cho quá trình lai tạo tiếp theo không có; ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của đàn bò cái.

    Do đó, song song với hoạt động sản xuất chuyên thịt từ con lai của bò 3B phải xây dựng đàn nền thông qua quá trình zebu hóa, đưa giống khả năng sinh sản cao, các giống bò ngoại… vào phục vụ cho phát triển đàn bò.

    Bên cạnh đó, tiếp tục sử dụng các nguồn gen bản địa như bò vàng, H’Mông, u đầu rìu… vì chúng có khả năng chống chịu tốt với dịch bệnh, điều kiện kham khổ.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Sử dụng tác nhân sinh học để quản lý sâu keo mùa thu bền vững

    HÀ NỘI Ngày 19/12, Bộ NN-PTNT cùng FAO tổ chức hội nghị tổng kết dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật xây dựng mở rộng phạm vi quản lý sâu keo mùa thu bền vững tại Việt Nam’.

    Theo Cục Bảo vệ thực vật (BVTV), hiện nay có nhiều biện pháp ngăn chặn sự lây lan và phá hoại của sâu keo mùa thu như điều tra phát hiện sớm, sử dụng giống kháng, chế phẩm và tác nhân sinh học (ký sinh thiên địch, bẫy bả), thuốc BVTV hóa học…

    Sử dụng tác nhân sinh học để quản lý sâu keo mùa thu bền vững

    Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Trung cho rằng, trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp, việc sâu keo mùa thu thay đổi quy luật phát sinh, phát triển, thói quen, tập tính hoàn toàn có thể xảy ra. Ảnh: Trung Quân.

    Tuy nhiên, để phòng, trừ sâu keo mùa thu, đa số nông dân Việt Nam vẫn dựa vào thuốc BVTV hóa học là chính, coi đây là biện pháp dập dịch nhanh chóng nhất mà không nghĩ đến hậu quả về lâu dài. Việc lạm dụng thuốc hóa học một cách phổ biến không chỉ gây độc hại đối với sức khỏe con người, môi trường, mà còn làm tổn hại đáng kể đến quần thể các loài thiên địch, phá vỡ cân bằng sinh thái, ảnh hưởng tới tính bền vững của sản xuất ngô ở nước ta. Trong khi đó, các mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật an toàn, hiệu quả trong quản lý sâu bệnh hại ngô nói chung và sâu keo mùa thu nói riêng chậm được nhân rộng.

    Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), sâu keo mùa thu đang nhanh chóng tăng tính kháng đối với nhiều loại hoạt chất hóa học tại châu Phi và châu Á. Vì vậy, việc tìm kiếm giải pháp quản lý sâu keo mùa thu bền vững, khôi phục và bảo tồn sự đa dạng của quần thể thiên địch là vấn đề cần thiết, không chỉ cho trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài. Trong đó, việc sử dụng giống kháng, biện pháp canh tác và các tác nhân sinh học trong phòng trừ sâu keo mùa thu có vai trò quan trọng trong hệ thống các biện pháp quản lý tổng hợp dịch hại ngô.

    Dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật xây dựng mở rộng phạm vi quản lý sâu keo mùa thu bền vững tại Việt Nam’ nằm trong hành động toàn cầu của FAO với mục tiêu quản lý bền vững sâu keo mùa thu. Kết quả của dự án sẽ được chia sẻ với các quốc gia tại châu Phi, cận Đông và châu Á.

    Sử dụng tác nhân sinh học để quản lý sâu keo mùa thu bền vững

    Sau 6 tháng triển khai, đến hiện tại, toàn bộ các mục tiêu đề ra của dự án đã được hoàn thành. Ảnh: Trung Quân.

    Sau 6 tháng triển khai, đến hiện tại, toàn bộ các mục tiêu đề ra của dự án đã được hoàn thành với những kết quả rất đáng ghi nhận. Cụ thể, dự án đã nâng cao năng lực quốc gia về quản lý sâu keo mùa thu bền vững thông qua đào tạo, tập huấn, trình diễn các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giám sát và quản lý, trong đó lồng ghép các vấn đề về sự tham gia của giới, an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý dịch hại xuyên biên giớ. Đã đào tạo được 65 giảng viên TOT của 29 tỉnh thành và 3 trung tâm BVTV vùng; tổ chức 9 lớp huấn luyện nông dân nòng cốt (FFS) với 270 người (103 nam và 167 nữ).

    Dự án cũng chủ động triển khai các giải pháp ngăn chặn, phòng trừ sâu keo mùa thu bền vững nhằm giảm thiểu sự lây lan và bùng phát dịch trên diện rộng; tổ chức được 2 lớp đào tạo, tập huấn cho nông dân với số lượng 60 người. Xây dựng 2 mô hình quản lý tổng hợp sâu keo mùa thu (IPM/IPHM) với quy mô 10ha tại Phú Thọ và Đồng Nai…

    Bên cạnh đó, dự án hoàn thành việc phối hợp với các nước trong khu vực thiết lập hệ thống giám sát, cảnh báo sớm sự phát sinh, gây hại của sâu keo mùa thu dựa trên mạng lưới BVTV quốc gia và khu vực…

    Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Trung chia sẻ, năm 2019, sâu keo mùa thu xuất hiện ở Việt Nam, trong thời gian ngắn đã nhanh chóng lan rộng ra 58 tỉnh thành với tổng diện tích ngô bị nhiễm hơn 76.000ha. Trước tình hình đó, Bộ NN-PTNT đã nhanh chóng chỉ đạo các đơn vị chuyên môn xây dựng quy trình phòng trừ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, mở lớp tập huấn để hướng dẫn nông dân nhận biết và ứng phó với loài sinh vật gây hại này. Nhờ đó, diện tích ngô bị nhiễm sâu keo mùa thu giảm dần. Đến năm 2023, diện tích nhiễm trên toàn quốc khoảng 8.000ha, với mức độ gây hại nhẹ.

    Sử dụng tác nhân sinh học để quản lý sâu keo mùa thu bền vững

    Quản lý sâu keo mùa thu theo hướng sử dụng biện pháp giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV hóa học, bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân là hết sức thiết thực. Ảnh: TL.

    Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp, việc sâu keo mùa thu có những biến đổi, thay đổi quy luật phát sinh, phát triển, thói quen, tập tính hoàn toàn có thể xảy ra, thậm chí có thể tấn công cả các loại cây trồng khác, trong đó có lúa. Do đó, các cơ quan quản lý và địa phương không được chủ quan, phải luôn chuẩn bị sẵn sàng các phương án ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra.

    Dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật xây dựng mở rộng phạm vi quản lý sâu keo mùa thu bền vững tại Việt Nam’ nhận được sự hỗ trợ của FAO để tìm ra giải pháp quản lý sâu keo mùa thu bền vững, đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa, giúp bổ sung các biện pháp, tài liệu, thông tin cho ngành BVTV, địa phương, người dân trong việc ứng phó với sâu keo mùa thu hiệu quả hơn.

    Bên cạnh đó, cách tiếp cận của dự án hết sức thiết thực khi định hướng quản lý sâu keo mùa thu theo hướng sử dụng biện pháp giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV hóa học, bảo vệ môi trường, sức khỏe người dân, hướng tới nền nông nghiệp minh bạch, trách nhiệm, thông minh, tăng trưởng xanh, giảm phát thải, tuần hoàn.

    Thứ trưởng Hoàng Trung đề nghị các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch tập huấn TOT, FFS của địa phương mình. Các đơn vị trực thuộc Bộ nhanh chóng hoàn thiện bộ tài liệu để cung cấp tới tận tay người dân. Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp chặt chẽ với Cục BVTV tổ chức chuyển giao, nhân rộng các kết quả của dự án.  

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Tăng cường sức khỏe, nguyên tắc số 1 trong chăn nuôi

    Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long cho biết, việc tăng cường sức khỏe vật nuôi là nguyên tắc số 1 trong chăn nuôi.

    Quản lý dịch bệnh, đặc biệt là cúm gia cầm tại Việt Nam vẫn là một thách thức do an toàn sinh học tại nhiều cơ sở chăn nuôi gia cầm chưa đảm bảo. Không những thế, hiểu biết của người chăn nuôi về mầm bệnh và cơ chế gây bệnh vẫn còn hạn chế.  

    60% tổng đàn gia cầm là từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ

    Tăng cường sức khỏe, nguyên tắc số 1 trong chăn nuôi

    Cục Thú y (Bộ NN-PTNT) cho biết, cuối năm 2003, bệnh cúm gia cầm A/H5N1 lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam.

    Khoảng 60% tổng đàn gia cầm là từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ trong khi an toàn sinh học chưa được thực hiện tốt. Người chăn nuôi điều trị bệnh gia cầm dựa theo kinh nghiệm hay theo tư vấn của người bán thuốc thú y.

    Tuy nhiên, rất khó để phân biệt các bệnh do sự biến chủng của virus hay sự kết hợp của các mầm bệnh. Do vậy, người chăn nuôi thường dùng kháng sinh phổ rộng để điều trị bệnh. Họ chỉ tìm kiếm sự trợ giúp của chuyên gia thú y hay lấy mẫu xét nghiệm sau khi đã điều trị mà không có kết quả.

    Là hộ chăn nuôi chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch cúm gia cầm, năm 2014 gia đình anh Trương Văn Phong (xã Đan Hội, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) đã buộc phải tiêu hủy 1 vạn con gà mắc cúm gia cầm. Điều đó đã gây ảnh hưởng đến tình hình kinh tế cả của gia đình.

    Thời điểm sau đó gia đình anh Phong đã được cán bộ thú ý hướng dẫn trong quá trình chăn nuôi. Anh Phong chia sẻ, sau khi nhận đàn gà, cứ 3 – 4 ngày gia đình anh nhỏ vacxin Lasota, 7 ngày nhỏ vacxin Gumboro, 12 ngày là chủng đậu rồi vừa chủng đậu lại kết hợp với nhỏ vaxin sưng đầu phù mặt, ngày thứ 35 thì dùng vacxin Newcastle lần một. Đúng theo quy trình đàn gà gia đình anh Phong phát triển tốt.

    Bên cạnh chọn con giống tốt và tiêm vacxin đầy đủ thì vệ sinh phòng bệnh, kiểm soát chặt chẽ người vào ra khu chăn nuôi cũng là nội dung quan trọng mà cơ quan thú y tập huấn và tuyên truyền cho các nông hộ.

    Theo chia sẻ của anh Lý Văn Đức (xã Cẩm Lý, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), chăn nuôi là nghề chính của gia đình anh, vệ sinh môi trường và phòng bệnh luôn được anh đặt lên hàng đầu. Cứ vài hôm, một tuần, nửa tháng gia đình anh lại tiến hành khử khuẩn toàn bộ khu vực chuồng trại để đảm bảo vệ sinh an toàn.

    Không chỉ được tập huấn về chăn nuôi an toàn sinh học, bảo vệ đàn gia cầm có tỷ lệ nuôi sống cao, nhiều hộ dân trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang còn được cán bộ thú y chia sẻ, tập huấn về cách sử dụng thuốc thú y 4 đúng. Đó là đúng thuốc, đúng lúc, đúng nồng độ liều lượng và đúng cách.

    Với nguyên tắc này, công dụng của thuốc sẽ được phát huy tối đa, đồng thời không gây tồn dư kháng sinh trong các sản phẩm chăn nuôi ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng.

    Theo Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long, hộ chăn nuôi cần phải xác định ở mỗi giai đoạn tăng trưởng của gia cầm sẽ gặp những dịch bệnh gì, từ đó có những giải pháp dự phòng không để gia cầm nhiễm bệnh.

    “Muốn đảm bảo vchăn nuôi đạt được hiệu quả cao nhất thì việc tăng cường sức khỏe con người, động vật và môi trường chính là chìa khóa để phòng ngừa, giám sát và ứng phó với các bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người cũng như bảo vệ sức khoẻ của cả cộng đồng. Chọn con giống tốt và làm vacxin đúng quy trình là những lưu ý quan trọng trong chăn nuôi”, ông Long cho biết thêm.

    Tăng cường sức khỏe vật nuôi là giải pháp phòng bệnh

    Thịt gia cầm đã trở thành loại thịt được ưa chuộng hàng đầu trên thế giới hiện nay. Việc giảm dần và hướng tới không sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi gia cầm là cần thiết. Cùng với đó, người chăn nuôi cần quan tâm đến vấn đề an ninh sinh học, vệ sinh, biện pháp chăm sóc gia cầm, dinh dưỡng…

    Tăng cường sức khỏe, nguyên tắc số 1 trong chăn nuôi

    Hộ chăn nuôi phun thuốc tiêu độc, khử trùng, chống dịch bệnh cho đàn gia cầm.

    Theo nhận định của Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long, việc tăng cường sức khỏe là nguyên tắc số 1 trong chăn nuôi. Người chăn nuôi cần kiểm soát để không xảy ra dịch bệnh, từ đó hạn chế việc sử dụng kháng sinh, giảm được sự tồn dư các loại thuốc kháng sinh trong sản phẩm động vật. Đồng thời hạn chế được tình trạng kháng kháng sinh, giúp đào thải được các mầm bệnh, cũng như các chất thải ra ngoài môi trường, giúp môi trường trong lành, bền vững hơn.

    Còn theo ý kiến của nhà báo Trịnh Bá Ninh, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam, để tăng cường sức khỏe cho vật nuôi, trước tiên phải đảm bảo các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Đầu tiên phải đảm bảo được mật độ chuẩn trong kỹ thuật chăn nuôi, tiêm vacxin trong quá trình chăn nuôi, vệ sinh tiêu độc khử trùng. Đảm bảo được 3 yếu tố đó giúp cho chăn nuôi an toàn và bền vững. 

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Vì sao giá cà phê tăng phi mã ngay trong mùa thu hoạch?

    Sản lượng giảm, kèm theo người dân không chịu bán cho các đại lý khiến giá cà phê tăng mạnh ngay cả khi đang trong giai đoạn thu hoạch.

    Giá cà phê tăng ngay trong thời gian thu hoạch

    Những ngày đầu tháng 12/2023, giá cà phê robusta tại thị trường nội địa tăng mạnh so với cuối tháng 11/2023. Diễn biến này trái với quy luật mọi năm khi vùng Tây Nguyên đang bước vào thời điểm thu hoạch, giá thường giảm do áp lực nguồn cung tăng lên. 

    Tính đến ngày 18/12, giá cà phê trung bình ở khu vực Tây Nguyên ở mức 67.300 đồng/kg, tăng mạnh 10.000 đồng/kg (tương đương 17%) so với cuối tháng 11. 

    Vì sao giá cà phê tăng phi mã ngay trong mùa thu hoạch?

    Nguồn: giacaphe.com (H.Mĩ tổng hợp)

    Trong báo cáo được công bố hôm 11/12, Cục Xuất nhập khẩu cho biết hiện các địa phương sản xuất cà phê chính của Việt Nam đang bước vào niên vụ mới 2023-2024 và đã thu hoạch được khoảng 50% sản lượng. Do thời tiết không thuận lợi, sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2023-2024 được dự kiến giảm so với niên vụ trước.

    Báo cáo của Hiệp hội Cà phê – Cacao Việt Nam (Vicofa) cho biết dự kiến sản lượng cà phê niên vụ 2023 – 2024 giảm 10% so với niên vụ trước đó do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, diện tích trồng xen tăng, người nông dân sẽ đầu tư vào các cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như sầu riêng, cây ăn trái.

    Cùng với giảm sản lượng, tồn kho vụ cũ chuyển qua vụ mới cũng ở mức thấp nhất qua các năm. Nếu như ở niên vụ 2022 – 2023, lượng tồn kho chuyển từ vụ trước đó là khoảng 160.000 tấn thì năm nay, con số này chưa bằng một nửa, khoảng 58.000 tấn. 

    Mặc dù giá cà phê trong năm 2023 tăng cao nhưng nhiều diện tích đã chuyển đổi sang trồng sầu riêng, trái cây.Hiện tại diện tích cà phê trồng xen với các loại cây khác chiếm khoảng 26% tổng diện tích, tương đương 187.000 ha. 

    “Nhìn chung do giá cà phê những năm qua xuống quá thấp nên người nông dân chưa đầu tư nhiều cho cây cà phê chỉ trừ các công ty cà phê và một số hợp tác xã”, Vicofa cho hay.

    Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT Intimex Group nhận định với tình hình hiện tại, chỉ cần đến tháng 4 – 5/2024 là có thể tiêu thụ hết hàng. Trong năm 2023, tình hình khan hiếm hàng bắt đầu từ tháng 6, đẩy giá cà phê trong nước tăng cao.

    “Châu Âu gần như chỉ có thể trông vào Việt Nam để mua cà phê robusta. Vì vậy, nhiều khả năng giá cà phê ở Việt Nam vẫn tiếp tục đà tăng trong năm 2024, thậm chí cao nhất thế giới”, ông Nam nói thêm.

    Người dân găm hàng không bán

    Đà tăng giá cà phê trong nước càng được thúc đẩy thêm khi người dân găm hàng, không bán cho đại lý.

    Chia sẻ với chúng tôi, lãnh đạo của một doanh nghiệp xuất khẩu cà phê lớn cho biết thời điểm đầu vụ, một số hộ đã ký bán trước cho các đại lý với giá 50.000 – 55.000 đồng/kg. Tuy nhiên, sau đó vài tuần, giá cà phê tăng mạnh, vượt mốc 60.000 đồng/kg, nhiều hộ “bể kèo” không giao đủ hàng như đã ký kết. Điều này khiến các đại lý thiếu cà phê để giao cho doanh nghiệp xuất khẩu. 

    Còn ở phía doanh nghiệp xuất khẩu, nỗi lo của họ là thiếu hàng để giao cho đối tác. Khi các đối tác nước ngoài không có hàng, họ buộc phải tìm đến sàn London. Đây cũng là nguyên nhân khiến giá cà phê robusta giao sau trên sàn London tăng mạnh 300 – 400 USD/tấn trong một tuần qua, phá vỡ mức kỷ lục cũ mới thiết lập hồi tháng 7, lên hơn 2.800 USD/tấn. 

    Vì sao giá cà phê tăng phi mã ngay trong mùa thu hoạch?

     Giá cà phê robusta thiết lập kỷ lục mới trong tháng 12 khi vượt ngưỡng 2.800 USD/tấn (Nguồn: Investing, đơn vị: USD/tấn)

    “Các nhà rang xay đối tác của chúng tôi cho biết mức giá 2.800 USD/tấn vượt ngoài kinh phí mua hàng của họ, nên không chốt được. Họ chấp nhận việc chậm giao hàng để chờ đợi mức giá tốt hơn”, vị này cho biết. 

    Ông cho rằng nếu người dân tiếp tục găm hàng, rủi ro không chỉ đến với các đại lý, doanh nghiệp mà còn lan rộng đến toàn ngành hàng. Các khách hàng có thể tìm đến nhà cung cấp của nước khác để thay thế.

    “Trong 3 tháng qua, các công ty nước ngoài bắt đầu rang hàng của Brazil. Nếu người dân tiếp tục giữ hàng, đến tháng 4, 5 năm sau khi hàng Brazil được bổ sung, thì lúc đó hàng Việt Nam sẽ khó bán được. Ít nhất người dân phải bán ra 50% thì mọi thứ mới quay trở lại quỹ đạo bình thường, nếu không thị trường sẽ bị “gãy”, ông cảnh báo.  

    Ngoài Brazil, hiện tại một số quốc gia Châu Phi cũng bắt đầu bước vào cuộc đua trồng robusta. Điển hình như Uganda. Nước này đang tập trung phát triển cà phê robusta bởi dễ trồng, năng suất cao. Các nhà rang xay cũng bắt đầu dùng hàng của Uganda.

    Ngoài ra, vị này cho rằng nếu giá cà phê robusta vẫn tiếp tục tăng cao trong khi giá hạt arabica đang giảm, thì các nhà rang xay có thể quay trở lại sử dụng hạt arabica. Điều này sẽ bất lợi đối với hạt robusta và giá có thể giảm xuống. 

    “Giá cà phê hay nhiều loại nông sản khác một khi đã giảm sau một đợt tăng nóng thì sẽ giảm rất mạnh và sâu”,  ông cho biết. 

    H.Mĩ

    Nguồn: VietNam Biz

  • Việt Nam chủ động nhất khu vực trong quản lý dịch bệnh mới nổi

    Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động nhất tại khu vực trong quản lý rủi ro dịch bệnh lây truyền và dịch bệnh mới nổi.

    Việt Nam chủ động nhất khu vực trong quản lý dịch bệnh mới nổi

    Ông Vũ Thanh Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT) và ông Oemar Idoe, Trưởng khối các Dự án về Môi trường, biến đổi khí hậu và Nông nghiệp, GIZ Việt Nam chủ trì hội thảo. Ảnh: Diệu Linh.

    Ngày 19/12, Bộ NN-PTNT qua Ban Thư ký Đối tác Một Sức khỏe đã phối hợp với Tổ chức Phát triển Quốc tế Đức (GIZ) chủ trì Hội thảo nhằm tăng cường nhận thức về phương pháp tiếp cận Một Sức khỏe, nhằm giảm thiểu rủi ro bệnh lây truyền từ động vật sang con người xuất phát từ hoạt động nuôi động vật hoang dã (ĐVHD) và tổng kết dự án “Giảm thiểu rủi ro sức khỏe phát sinh từ thương mại ĐVHD ở Việt Nam”. 

    Theo thông tin từ dự án, Việt Nam là một trong những điểm nóng toàn cầu về dịch bệnh lây truyền từ động vật sang người; đồng thời cũng là một trong những quốc gia chủ động nhất tại khu vực trong quản lý rủi ro dịch bệnh lây truyền và dịch bệnh mới nổi, đặc biệt là dịch bệnh từ động vật sang người.

    Theo thống kê, hiện cả nước có khoảng 8.600 cơ sở gây nuôi động vật hoang dã với 2,5 triệu cá thể, 300 loài được nuôi.

    Để tăng cường nỗ lực của Chính phủ trong đảm bảo an ninh sinh học tại các trang trại gây nuôi ĐVHD, nhiều khuyến nghị chính sách và hướng dẫn kỹ thuật đã được xây dựng và sẵn sàng thực hiện.

    Đây chính là kết quả của Dự án “Giảm thiểu rủi ro sức khỏe phát sinh từ thương mại ĐVHD ở Việt Nam” giữa CHLB Đức và Việt Nam.

    Đây là một phần của dự án toàn cầu hỗ trợ “Liên minh quốc tế chống lại rủi ro về sức khỏe trong thương mại động vật hoang dã” do Bộ Hợp tác và Phát triển kinh tế Liên bang Đức (BMZ) ủy quyền và được Bộ Môi trường, Bảo tồn Thiên nhiên và An toàn hạt nhân Cộng hòa Liên bang Đức (BMUV) hỗ trợ.

    Việt Nam chủ động nhất khu vực trong quản lý dịch bệnh mới nổi

    Theo thống kê, hiện cả nước có khoảng 8.600 cơ sở gây nuôi động vật hoang dã với 2,5 triệu cá thể, 300 loài được nuôi. Ảnh: DL.

    Hội thảo tóm tắt kết quả sau 1,5 năm triển khai, bao gồm 3 mục tiêu chính: nghiên cứu cơ sở thực tiễn, rà soát chính sách, và tham vấn chính sách nhằm củng cố quản lý hoạt động nuôi ĐVHD để giảm rủi ro bệnh lây truyền từ ĐVHD sang con người.

    Dự án đã phổ biến kiến thức về phương pháp tiếp cận Một Sức khỏe, đồng thời đề xuất cải thiện chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật cho nuôi ĐVHD thương mại ở Việt Nam.

    Ông Vũ Thanh Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, đánh giá Dự án quy mô nhỏ nhưng đã có hiệu quả trong mục tiêu giảm rủi ro sức khỏe từ thương mại ĐVHD ở Việt Nam.

    Ngoài ra, Dự án đã hỗ trợ sửa đổi Nghị định 06/2019/NĐ-CP và Nghị định 84/2021/NĐ-CP về quản lý loài động, thực vật rừng nguy cấp và thực hiện Công ước quốc tế về thương mại loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES). Các đề xuất từ Dự án sẽ được Bộ NN-PTNT hoàn thiện để thông qua vào năm 2024.

    Kết quả đã được chia sẻ rộng rãi, mở ra nhiều nhiệm vụ mới đòi hỏi sự hợp tác của nhà nước, chính phủ, các cơ quan, đoàn thể và đối tác quốc tế.

    Để lồng ghép biện pháp an ninh sinh học vào khung pháp lý, Dự án đề xuất sửa đổi các nghị định hiện hành và tăng cường tuyên truyền để nâng cao nhận thức về rủi ro từ hoạt động nuôi ĐVHD.

    Ông Oemar Idoe, Trưởng khối các Dự án về Môi trường, biến đổi khí hậu và Nông nghiệp, GIZ Việt Nam nhận định, gói quốc gia tại Việt Nam do GIZ và Ban thư ký Đối tác Một Sức khỏe thực hiện đã đạt được mục tiêu góp phần củng cố khung chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật cho các trang trại nuôi động vật hoang dã thương mại.

    “Những khuyến nghị bao gồm việc xây dựng và áp dụng nghiêm ngặt các yêu cầu đối với hoạt động chăn nuôi động vật hoang dã, chẳng hạn như xác định các tiêu chí và theo dõi các thủ tục đối với các biện pháp và phân loại ĐVHD có nguy cơ lây nhiễm cao.

    Hiện đã có danh sách các biện pháp an toàn sinh học cụ thể dựa trên thông lệ quốc tế tốt nhất. Những biện pháp tóm tắt này hiện có thể được sử dụng làm hướng dẫn và hướng dẫn kỹ thuật”, đại diện GIZ thông tin.

    Chia sẻ về kết quả nổi bật của dự án, bà Anja Barth, Cố vấn trưởng Dự án, GIZ, cho biết dự án có sự liên quan đến khuyến nghị chính sách và các giải pháp an toàn sinh học.

    Với trọng tâm của dự án nhằm củng cố chính sách cũng như là đưa ra những đề xuất để sửa đổi các nội dung liên quan đến chính sách, phổ biến các biện pháp về an toàn sinh học cho cán bộ kỹ thuật cũng như các chủ trang trại nuôi cấy. 

    Cuối cùng là giảm thiểu những rủi ro liên quan các cơ sở gây nuôi, quần thể của các loài động vật hoang dã trong môi trường này, từ đó đề xuất các biện pháp an toàn sinh học cụ thể với từng loài cụ thể hoặc dựa trên các biện pháp an toàn sinh học đã có, tăng cường phổ biến áp dụng trong gây nuôi ĐVHD. 

    Chuyên gia GIZ cho rằng Việt Nam đã có khuyến nghị và chính sách rõ ràng về giảm thiểu rủi ro về sức khỏe ĐVHD gây nuôi song cần làm thể nào để phổ biến và đưa chính sách vào thực tiễn. 

    “Với những thay đổi của Nghị định 06 và Nghị định 84 cũng như với tiến trình sửa đổi Luật Thú y trong thời gian tới, chúng tôi mong rằng Việt Nam có thể đưa ra những quy định, hướng dẫn cụ thể để giảm thiểu  rủi ro về sức khỏe trong gây nuôi động vật hoang dã”, bà Anja cho biết. 

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Ứng dụng công nghệ giúp chăn nuôi ngăn chặn hiệu quả dịch bệnh

    Nhiều năm qua, không ít trang trại heo, gà tại Bà Rịa – Vũng Tàu (BR-VT) miễn nhiễm với dịch bệnh do ứng dụng hiệu quả tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào chăn nuôi.

    Ứng dụng công nghệ giúp chăn nuôi ngăn chặn hiệu quả dịch bệnh

    Đầu tư công nghệ nuôi chuồng lạnh khép kín giúp người nuôi chủ động kiểm soát, ngăn chặn tối đa mầm bệnh và các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài. Ảnh: Minh Sáng.

    Công ty TNHH Đầu tư phát triển Đông Nam Toàn Cầu, xã Suối Rao, huyện Châu Đức (BR-VT) hiện đang nuôi 80 ngàn con gà trong chuồng lạnh trên diện tích gần 7.000m2.

    Ông Phạm Hồng Thanh, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư phát triển Đông Nam Toàn Cầu cho biết: “Với công nghệ nuôi chuồng lạnh khép kín này đã giúp doanh nghiệp chúng tôi chủ động kiểm soát, ngăn chặn tối đa mầm bệnh và các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài. Nhờ vậy, tỷ lệ hao hụt cũng thấp hơn so với các mô hình chăn nuôi khác”.

    Theo ông Thanh, trong chăn nuôi khâu quan trọng nhất là môi trường và phòng chống dịch bệnh. Nếu người nuôi giải quyết được hai vấn đề này chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả.

    Tương tự, trang trại heo tại ấp Sơn Tân, xã Sơn Bình, huyện Châu Đức hiện đang nuôi khoảng 400 heo thịt, 100 heo nái và 200 heo cai sữa. Trang trại này cũng đang áp dụng mô hình chăn nuôi heo công nghiệp với thiết kế chuồng trại được nâng cao sàn nuôi cách mặt đất khoảng 70cm, xung quanh chuồng có lắp đặt hệ thống quạt thông gió.

    Ông Phan Công Luận, kỹ thuật viên trang trại chăn nuôi heo xã Sơn Bình, huyện Châu Đức cho biết, trại nuôi theo quy mô công nghiệp, tự cung tự cấp giống nên bảo đảm môi trường, tỷ lệ hao hụt ít, các bệnh trên heo cũng ít xảy ra nên giúp kiểm soát được chất lượng.

    “Trang trại chúng tôi được cán bộ thú y địa phương thường xuyên hướng dẫn cách phòng, tránh dịch bệnh, tham gia các đợt tiêm vacxin và ghi chép đầy đủ nhật ký chăn nuôi, thực hiện nghiêm vệ sinh chuồng trại, phun xịt tiêu độc khử trùng, tuân thủ các quy định về vùng nuôi an toàn dịch bệnh. Nhờ vậy, đàn heo của trang trại luôn khỏe mạnh, phát triển tốt và không phát sinh dịch bệnh”, ông Luận chia sẻ.

    Ứng dụng công nghệ giúp chăn nuôi ngăn chặn hiệu quả dịch bệnh

    Công ty TNHH Trang Linh (xã Bông Trang, huyện Xuyên Mộc) là doanh nghiệp tiên phong ứng dụng thành công nhiều tiến bộ kỹ thuật, công nghệ số và đầu tư công nghệ cao phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi. Ảnh: Minh Sáng.

    Điển hình trong việc đầu tư công nghệ cao phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi, Công ty TNHH Trang Linh (xã Bông Trang, huyện Xuyên Mộc) là doanh nghiệp tiên phong ứng dụng thành công nhiều tiến bộ kỹ thuật, công nghệ số vào chăn nuôi.

    Đây cũng là doanh nghiệp đầu tiên được tỉnh BR-VT công nhận là doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Với quy mô 3.600 con heo nái và 100.000 con heo thịt, thời gian qua, doanh nghiệp này đã đầu tư ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật vào chăn nuôi heo nhằm phòng chống dịch bệnh hiệu quả. Trang trại đã xây dựng các hệ thống chuồng lạnh và sử dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi.

    Giám đốc Phạm Trường Giang khẳng định: “Mô hình chuồng lạnh có nhiệt độ ổn định, cách ly với bên ngoài nên đàn heo phát triển tốt, ít phát sinh dịch bệnh, heo không phải dùng kháng sinh, giảm chi phí và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, thịt rất thơm ngon. Ưu điểm nữa là không phải xử lý nước thải, nên rất thân thiện với môi trường”. 

    Theo anh Giang, một công nghệ mới về vacxin và thuốc trong chăn nuôi cũng được công ty đang áp dụng thành công và hiệu quả, đó là máy tiêm không dùng kim (súng bắn vacxin). Giải pháp này đáp ứng phúc lợi động vật và mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Sử dụng vacxin đa giá (tiêm 1 mũi phòng nhiều bệnh) nhằm tăng tỷ lệ tiêm phòng, giảm nguy cơ stress do số lần tiêm ít hơn, giảm thời gian và chi phí.

    Ứng dụng công nghệ giúp chăn nuôi ngăn chặn hiệu quả dịch bệnh

    Xây dựng các hệ thống chuồng lạnh và sử dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi có nhiều ưu điểm, tăng sức đề kháng cho vật nuôi, giảm được một số bệnh thông thường. Ảnh: Minh Sáng.

    Để thực hiện mô hình nuôi heo bằng đệm lót sinh học, công ty đã đầu tư 800 triệu đồng/năm để mua trấu và men vi sinh. Áp dụng công nghệ này có nhiều ưu điểm, tăng sức đề kháng cho vật nuôi, giảm được một số bệnh thông thường. Đàn heo không cần phải tắm trong suốt thời gian chăm sóc nên không phát sinh nước thải gây ô nhiễm môi trường và tiết kiệm được nhân công lao động.

    Chất thải của vật nuôi được phân hủy hoàn toàn ngay trong chuồng dưới tác dụng đệm lót vi sinh. Môi trường chuồng nuôi trong lành, không có mùi hôi thối, không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh khu vực nuôi.

    Xây dựng hiệu quả các vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh

    Để triển khai xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh, ngành chăn nuôi tỉnh BR-VT đã khuyến khích các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chuyển dần sang chăn nuôi quy mô trang trại tập trung, bảo đảm an toàn sinh học, có kiểm soát, áp dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các địa phương trong việc giám sát dịch bệnh đối với bệnh đăng ký chứng nhận, công nhận vùng an toàn dịch bệnh…

    Tính đến nay, toàn tỉnh BR-VT đã xây dựng được 17 vùng an toàn dịch bệnh và 86 cơ sở an toàn dịch bệnh động vật được cơ quan thú y công nhận. Trong kế hoạch chiến lược phát triển ngành chăn nuôi giai đoạn 2022 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của tỉnh BR-VT, xây dựng cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh là một trong bảy mục tiêu để đảm bảo phát triển chăn nuôi của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hóa.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Doanh nghiệp lương thực, thực phẩm chào hàng Tết tại TP.HCM

    Rượu, hạt điều, cà phê, trà, trái cây sấy… được các doanh nghiệp lương thực, thực phẩm các tỉnh thành trưng bày, giới thiệu với những giỏ quà Tết bắt mắt tại TP.HCM.

    Doanh nghiệp lương thực, thực phẩm chào hàng Tết tại TP.HCM

    Lần đầu tiên tham gia chương trình, chị Lương Tuyết Nga, Tổng giám đốc Công ty TNHH Hà Lê Ninh Thuận mong muốn đem đến những giỏ quà Tết ấn tượng với sản phẩm đặc trưng của Ninh Thuận là táo tươi, táo sấy dẻo, yến… Ảnh: Nguyễn Thủy.

    Từ ngày 19/12- 25/12, tại số 92-96 đường Nguyễn Huệ, phường Bến Nghé, quận 1, Hội Lương thực thực phẩm TP.HCM phối hợp Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố (ITPC) tổ chức “Tuần lễ Triển lãm sản phẩm ngành lương thực, thực phẩm năm 2023” (gọi tắt là Tuần lễ – PV).

    Chương trình quy tụ gần 100 doanh nghiệp tiêu biểu của TP.HCM thuộc các ngành hàng tiêu dùng, đồ khô – thủy hải sản, đồ ngọt – bánh kẹo, đồ uống, nông nghiệp sạch… Bên cạnh đó, còn có sự tham dự của doanh nghiệp các tỉnh thành có thỏa thuận hợp tác phát triển kinh tế xã hội với TP.HCM như tỉnh Long An, Kiên Giang, Cần Thơ, Bến Tre, Khánh Hòa, Kon Tum, An Giang, Ninh Thuận… thông qua không gian triển lãm sản phẩm OCOP và sản phẩm đặc sản vùng miền. Quầy kệ trưng bày được TP.HCM hỗ trợ hoàn toàn miễn phí cho các doanh nghiệp tham gia.

    Doanh nghiệp lương thực, thực phẩm chào hàng Tết tại TP.HCM

    Các loại hạt có nhu cầu sử dụng cao trong dịp Tết. Ảnh: Nguyễn Thủy.

    Ông Trần Phú Lữ, Giám đốc ITPC cho biết, ngành lương thực thực phẩm là một trong 4 ngành công nghiệp trọng điểm được ưu tiên phát triển của TP.HCM, chiếm 14-15% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp.

    Trong thời gian qua, doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm đã từng bước cải tiến sản phẩm, áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất, sử dụng các nguyên liệu xanh, hữu cơ và thân thiện với môi trường. Từ đó, từng bước đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu. Đặc biệt trong xu thế khai mở các thị trường mới như hiện nay, doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm đã nỗ lực không ngừng nhằm đạt được chứng nhận Halal, góp phần đưa hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường của các nước Hồi giáo.

    “Mỗi sản phẩm tham gia Tuần lễ thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm trong việc mang đến cho người tiêu dùng và đối tác xuất khẩu những sản phẩm mới đáp ứng xu hướng tiêu dùng mới nhằm hướng tới xây dựng một ngành lương thực thực phẩm xanh – sạch – hữu cơ (organic) và thân thiện với môi trường”, ông Trần Phú Lữ nói.

    Doanh nghiệp lương thực, thực phẩm chào hàng Tết tại TP.HCM

    Đây là cơ hội để các doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm tìm kiếm đối tác xuất khẩu. Ảnh: Nguyễn Thủy.

    Theo bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TP.HCM, sức mua tại TP.HCM trong tháng 11 tuy có tăng, nhưng so với cùng kỳ năm ngoái vẫn còn chậm. Tuy vậy, các doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm, đặc biệt các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thịt gia súc, thịt gia cầm và các mặt hàng thiết yếu hàng ngày, mì ăn liền… đều có sự chuẩn bị nguồn nguyên liệu tăng từ 15-20% trước Tết một tháng và sau Tết một tháng. Do đó, nếu sức mua có tăng đột biến, giá vẫn không thay đổi. 

    “Các doanh nghiệp tham gia Tuần lễ lần này với các sản phẩm lương thực thực phẩm uy tín, chất lượng, mẫu mã đẹp, giá thành cạnh tranh và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn xuất khẩu, vệ sinh an toàn thực phẩm…  Đặc biệt, có nhiều giỏ quà Tết với mẫu mã cũng như giá thành phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Thông qua Tuần lễ này sẽ là dịp để các doanh nghiệp tìm kiếm được những đối tác, khách hàng cũng như tìm kiếm được những đơn hàng xuất khẩu”, bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TP.HCM nói.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam