Blog

  • Giá tiêu hôm nay 29/12/2023: Giảm mạnh về ngưỡng 83.000 đ/kg

    Giá tiêu hôm nay 29/12/2023 quay đầu giảm sâu tới 2.000 đ/kg. Hiện thị trường hồ tiêu trong nước đang giao dịch về quanh ngưỡng giá 81.000 – 83.000 đ/kg.

    Giá tiêu hôm nay 29/12/2023: Giảm mạnh về ngưỡng 83.000 đ/kg

    Cập nhật giá tiêu trong nước và thế giới mới nhất ngày 29/12/2023

    Giá tiêu hôm nay 29/12 trên thế giới

    Trên thế giới, thị trường hồ tiêu ngày 29/12 giữ nguyên tại tất cả các quốc gia.

    Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia giữ ở mức 3.893 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này neo tại mức 6.110 USD/tấn.

    Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia duy trì ổn định ở mức 4.900 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này vẫn có giá 7.300 USD/tấn.

    Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 ở mức 3.270 USD/tấn.

    Còn tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500 và 550 g/l lần lượt giữ mức 3.900 và 4.000 USD/tấn; tăng 200 USD. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu đạt mức 5.700 USD/tấn.

    Loại hạt tiêu Giá cả (Đơn vị: USD/tấn) Thay đổi
    Tiêu đen Lampung (Indonesia) 3.893
    Tiêu đen Brazil ASTA 570 3.270
    Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA 4.900
    Tiêu trắng Muntok 6.110
    Tiêu trắng Malaysia ASTA 7.300

    Giá hồ tiêu thế giới hôm nay duy trì ổn định. IPC nhận định, thị trường tiêu toàn cầu tuần này biến động trái chiều, với giá tiêu Ấn Độ và Sri Lanka giảm.

    Trong đó, sau 2 tuần ổn định, giá tiêu Ấn Độ ghi nhận giảm trong tuần trước. Còn giá tiêu nội địa Sri Lanka cũng giảm tương tự.

    Tại Đông Nam Á, cả giá tiêu giao dịch trong nước và quốc tế của Indonesia đều ổn định trong tuần qua. Giá tiêu nội địa và xuất khẩu của Malaysia tiếp tục ổn định và không thay đổi.

    Trong khi đó, chỉ có giá tiêu đen xuất khẩu của Việt Nam ổn định, các loại khác tiếp tục ghi nhận tăng kể từ 3 tuần qua.

    Như vậy, giá tiêu thế giới ngày 29/12/2023 không có biến động mới so với hôm qua.

    Giá tiêu hôm nay 29/12 ở trong nước

    Ở trong nước, thị trường hồ tiêu ngày 29/12 giảm mạnh so với hôm qua.

    Cụ thể, Đắk Lắk và Đắk Nông giảm 1.500 đồng; thu mua về mức 83.000 đ/kg;

    Tại Gia Lai, giá hồ tiêu giảm 1.000 đồng, giao dịch quanh ngưỡng 81.000 đ/kg;

    Tại Đồng Nai, thương lái thu mua ở mức giá 81.000 đ/kg, sau khi giảm 1.000 đồng;

    Giá hồ tiêu mới nhất tại Bà Rịa – Vũng Tàu về ngưỡng 81.500 đ/kg, giảm 1.500 đồng;

    Còn thương lái Bình Phước giảm giao dịch tới 2.000 đ/kg, về giá 83.000 đ/kg.

    Tỉnh thành Giá cả Tăng/Giảm
    Đắk Lắk 83.000 -1.500
    Đắk Nông 83.000 -1.500
    Gia Lai 81.000 -1.000
    Đồng Nai 81.000 -1.000
    Bà Rịa – Vũng Tàu 81.500 -1.500
    Bình Phước 83.000 -2.000

    Bảng giá hồ tiêu trong nước mới nhất ngày 29/12/2023. Đơn vị: đ/kg

    Giá tiêu trong nước hôm nay quay đầu giảm mạnh, có nơi giảm tới 2.000 đ/kg. Qua đó, thị trường hồ tiêu nội địa đã quay về ngưỡng 83.000 đ/kg.

    Sau 4 ngày tăng liên tiếp của thị trường, giá tiêu nội địa đi xuống khi mà nhu cầu xuất khẩu xuống thấp do trong giai đoạn nghỉ năm mới. Mức giá tăng cao vừa qua đã kích thích bán.

    Do đó, 1 tháng trở lại đây thị trường có 2 lần giảm ngay khi vừa chinh phục mốc 85.000 đ/kg. Lần trước đà giảm đưa thị trường về dưới 80.000 đồng/kg rồi bật tăng trở lại.

    Giới chuyên gia nhận định, lần giảm này của thị trường sẽ khó hồi phục hơn, do một số khu vực đã bắt đầu vào vụ thu hoạch hồ tiêu. Các nhà đầu cơ vẫn đang nghe nghóng thị trường, tính toán dựa trên dự đoán sản lượng năm nay.

    Như vậy, giá tiêu trong nước ngày 29/12/2023 đang giao dịch quanh mức 81.000 – 83.000 đ/kg.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Giá lúa gạo hôm nay 29/12: Gạo thường giảm 100 đồng/kg

    Theo đó, giá lúa gạo hôm nay (29/12) giảm 100 đồng/kg đối với loại gạo thường. Theo ghi nhận, người dân Cà Mau có niềm vui nhân đôi khi thu hoạch vụ lúa trên đất nuôi tôm (mô hình lúa – tôm) vừa được mùa lại trúng giá.

    Giá lúa gạo hôm nay

    Tại An Giang, giá lúa hôm nay (29/12) lặng sóng. Trong đó, 15.000 đồng/kg là mức giá cao nhất được niêm yết cho giống lúa Nàng Nhen (khô). 

    Song song đó, giá nếp tiếp tục đứng yên. Trong đó, giá nếp 3 tháng (tươi) và nếp Long An (tươi) lần lượt rơi vào khoảng 7.600 – 7.700 đồng/kg và 7.800 – 8.000 đồng/kg. Đối với nếp Long An (khô) và nếp AG (khô), các loại tạm dừng khảo sát trong hôm nay. 

    Giá lúa

    ĐVT

    Giá mua của thương lái (đồng)

    Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

    – Nếp 3 tháng (tươi)

    kg

    7.600 – 7.700

    – Nếp Long An (tươi)

    kg

    7.800 – 8.000

    – Nếp AG (khô)

    kg

    – Nếp Long An (khô)

    kg

    – Lúa IR 50404

    kg

    8.900 – 9.100

    – Lúa Đài thơm 8

    kg

    9.600 – 9.800

    – Lúa OM 5451

    kg

    9.500 – 9.700

    – Lúa OM 18

    kg

    9.600 – 9.800

    – Nàng Hoa 9

    kg

    9.500 – 9.600

    – OM 380

    Kg

    – Lúa Nhật

    kg

    7.800 – 8.000

    – Lúa IR 50404 (khô)

    kg

    – Lúa Nàng Nhen (khô)

    kg

    15.000

    Giá gạo

     ĐVT

    Giá bán tại chợ (đồng)

    Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

    – Nếp ruột

    kg

    16.000 – 20.000

    – Gạo thường

    kg

    15.000 – 16.000

    -100

    – Gạo Nàng Nhen

    kg

    26.000

    – Gạo thơm thái hạt dài

    kg

    19.000 – 20.000

    – Gạo thơm Jasmine

    kg

    17.500 – 19.000

    – Gạo Hương Lài

    kg

    19.500

    – Gạo trắng thông dụng

    kg

    17.000

    – Gạo Nàng Hoa

    kg

    19.500

    – Gạo Sóc thường

    kg

    17.500 – 19.000

    – Gạo Sóc Thái

    kg

    19.500

    – Gạo thơm Đài Loan

    kg

    21.000

    – Gạo Nhật

    kg

    22.000

    – Cám

    kg

    9.000 – 10.000

    Bảng giá lúa gạo hôm nay 29/12 tại tỉnh An Giang. (Nguồn: Sở NN&PTNT An Giang)

    Khảo sát tại chợ An Giang cho thấy, gạo thường giảm 100 đồng xuống khoảng 15.000 – 16.000 đồng/kg. Trong khi đó, các loại gạo khác duy trì mức giá ổn định so với ngày hôm qua. 

    Giá lúa gạo hôm nay 29/12: Gạo thường giảm 100 đồng/kg

     

    Giá cám hiện vẫn được ghi nhận quanh mức 9.000 – 10.000 đồng/kg. 

    Giá lúa gạo hôm nay 29/12: Gạo thường giảm 100 đồng/kg

    Nguồn: Thư Nguyễn

    Cà Mau: Người dân trúng mùa được giá lúa trên đất nuôi tôm

    Tại xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, người dân làm mô hình lúa – tôm cũng đã vào thời điểm chính vụ thu hoạch lúa. Năng suất lúa ước đạt từ 5,5 – 6 tấn/ha; giá lúa giao động từ 8.000 – 8.500 đồng/kg, tùy loại giúp người dân lãi cao, theo VOV. 

    Ông Mạc Ngọc Tuyền, Chủ tịch Hội Nông dân xã Lý Văn Lâm cho biết, giá lúa năm nay cao hơn khoảng 2.000 đồng/kg so với vụ mùa cùng kỳ. Đặc biệt, đối với những hộ dân trong các hợp tác xã, lúa được bao tiêu với giá từ 8.700 – 9.000 đồng/kg, giúp bà con có lợi nhuận cao hơn.

    Toàn tỉnh Cà Mau hiện có khoảng 30.000 ha đất lúa –  tôm. Tập trung nhiều tại huyện Thới Bình, U Minh và TP.Cà Mau. Hiện bà con đã tiến hành thu hoạch được khoảng 50% diện tích. Năm nay, lúa đạt năng suất, giá lúa ở mức cao nên người dân có niềm vui nhân đôi.

    Thư Nguyễn

    Nguồn: VietNam Biz

  • Giá heo hơi hôm nay 29/12/2023: Thị trường đồng loạt đi ngang

    Giá heo hơi hôm nay 29/12/2023 không có biến động mới, tiếp tục giữ ở ngưỡng 48.000 – 52.000 đ/kg. Đồng Nai vẫn đang đảm bảo sản lượng thịt cung ứng ra thị trường.

    Giá heo hơi hôm nay 29/12/2023: Thị trường đồng loạt đi ngang

    Cập nhật giá heo hơi ba miền mới nhất ngày hôm nay 29/12/2023.

    Giá heo hơi hôm nay 29/12 tại miền Bắc

    Thị trường heo hơi miền Bắc không có biến động mới so với hôm qua.

    Theo đó, giá heo tại Lào Cai, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình vẫn giữ ở ở mức 50.000 đ/kg – thấp nhất khu vực hiện nay

    Còn các địa phương khác neo tại giá 51.000 đ/kg.

    Tỉnh/Thành Giá cả Tăng/Giảm
    Bắc Giang 51.000
    Yên Bái 51.000
    Lào Cai 50.000
    Hưng Yên 51.000
    Nam Định 50.000
    Thái Nguyên 51.000
    Phú Thọ 51.000
    Thái Bình 51.000
    Hà Nam 50.000
    Vĩnh Phúc 51.000
    Hà Nội 51.000
    Ninh Bình 50.000
    Tuyên Quang 51.000

    Như vậy, giá lợn hơi miền Bắc ngày 29/12/2023 đang giao dịch ở mức 50.000 – 51.000 đ/kg.

    Giá heo hơi hôm nay 29/12 tại miền Trung

    Thị trường heo hơi miền Trung và Tây Nguyên duy trì ổn định so với hôm qua.

    Cụ thể, Quảng Trị và Khánh Hòa tiếp tục thu mua ở ngưỡng 48.000 đ/kg – giá heo thấp nhất khu vực hiện nay

    Thương lái tại các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Lâm Đồng và Bình Thuận tiếp tục giao dịch tại giá cao nhất khu vực – 50.000 đ/kg.

    Các địa phương còn lại giữ ở mức 49.000 đ/kg.

    Tỉnh/Thành Giá cả Tăng/Giảm
    Thanh Hóa 49.000
    Nghệ An 49.000
    Hà Tĩnh 49.000
    Quảng Bình 49.000
    Quảng Trị 48.000
    Thừa Thiên Huế 49.000
    Quảng Nam 50.000
    Quảng Ngãi 49.000
    Bình Định 50.000
    Khánh Hòa 48.000
    Lâm Đồng 50.000
    Đắk Lắk 49.000
    Ninh Thuận 49.000
    Bình Thuận 50.000

    Như vậy, giá lợn hơi miền Trung và Tây Nguyên ngày 29/12/2023 thu mua quanh mức 48.000 – 50.000 đ/kg.

    Giá heo hơi hôm nay 29/12 ở miền Nam

    Thị trường heo hơi miền Nam vẫn giữ nguyên mức giá hôm qua.

    Trong đó, Kiên Giang và Cà Mau lần lượt giao dịch giá heo tại 51.000 và 52.000 đ/kg.

    Các địa phương còn lại thu mua quanh ngưỡng giá 49.000 – 50.000 đ/kg.

    Tỉnh/Thành Giá cả Tăng/Giảm
    Bình Phước 49.000
    Đồng Nai 50.000
    TP.HCM 49.000
    Bình Dương 49.000
    Tây Ninh 49.000
    Vũng Tàu 50.000
    Long An 50.000
    Đồng Tháp 50.000
    An Giang 50.000
    Vĩnh Long 50.000
    Cần Thơ 50.000
    Kiên Giang 51.000
    Hậu Giang 50.000
    Cà Mau 52.000
    Tiền Giang 50.000
    Bạc Liêu 50.000
    Trà Vinh 49.000
    Bến Tre 50.000
    Sóc Trăng 50.000

    Như vậy, giá lợn hơi miền Nam ngày 29/12/2023 đang giao dịch trong khoảng 48.000 – 52.000 đ/kg.

    Đồng Nai vẫn đảm bảo được sản lượng thịt cung ứng ra thị trường

    Tuy năm 2023 đã đối diện với nhiều khó khăn do giá thức ăn tăng cao, tiêu thụ sản phẩm gặp khó… nhưng ngành chăn nuôi tỉnh Đồng Nai đã triển khai các giải pháp chăn nuôi an toàn sinh học, phòng chống dịch bệnh, góp phần tái đàn có hiệu quả, công tác tiêm phòng luôn được quan tâm, giám sát chặt chẽ.

    Tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm có phát sinh nhưng chỉ ở thể nhẹ và được phòng chống kịp thời, không phát sinh thành dịch. Nhờ đó, tổng đàn gia súc tại Đồng Nai đạt trên 2,4 triệu con (giảm 2,42% so cùng kỳ) và tổng đàn gia cầm đạt trên 25 triệu con (tăng 0,3% so cùng kỳ).

    Tuy giá lợn hơi giảm, nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ tạm ngưng không tái đàn nhưng các trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi heo vẫn nỗ lực duy trì sản xuất, hoàn thiện hơn chuỗi khép kín từ chăn nuôi đến giết mổ, linh động trong khâu phân phối ra thị trường.

    Đồng thời, nâng cấp quy trình sản xuất, chất lượng để sản phẩm đủ chuẩn tham gia thị trường xuất khẩu. Do vậy, sản lượng thịt lợn xuất những tháng cuối năm vẫn tăng khá so cùng kỳ.

    Hiện ngành chăn nuôi tỉnh Đồng Nai vẫn đảm bảo được sản lượng thịt các loại cung ứng ra thị trường. Theo ước tính của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Đồng Nai, tổng sản lượng sản phẩm chăn nuôi trên địa bàn tỉnh năm 2023 đạt hơn 676,4 ngàn tấn thịt các loại, đạt hơn 99,8% so với mục tiêu kế hoạch năm đặt ra, tăng gần 4,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Quýt Vân Sơn đổi đời nhiều hộ vùng cao Tân Lạc

    HÒA BÌNH Bên cạnh các đặc sản khoai lang, bưởi đỏ, mía tím, ngọn rau su su…, huyện Tân Lạc còn có quýt Vân Sơn thơm ngon nổi tiếng, bán được giá 45.000 đồng/kg tại vườn.

    Quýt Vân Sơn đổi đời nhiều hộ vùng cao Tân Lạc

    Một góc vườn đồi quýt Vân Sơn. Ảnh: Hải Tiến.

    Bà Hà Thị Hồng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Vân Sơn, huyện Tân Lạc (Hoà Bình) cho biết, quýt Vân Sơn bên cạnh chất lượng ăn rất thơm ngon, còn cho thu hoạch khá sớm, quả chín rộ vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 (dương lịch) nên bán được giá rất cao, có thời điểm bán sỉ tại vườn cũng được 45.000 – 50.000 đồng/kg.

    Phong trào cải tạo vườn tạp, chuyển đổi các cây rau màu giá trị kinh tế thấp sang trồng quýt đã từng bước lan rộng ra khắp xã, nhưng trồng nhiều nhất vẫn là các xóm của xã Nam Sơn cũ (nay thuộc xã Vân Sơn).

    “Đến nay, tổng diện tích quýt trồng trên địa bàn xã khoảng gần 200ha. Trong đó có hơn 100ha đang ở thời kỳ khai thác kinh doanh, năng suất trung bình đạt 30 tấn quả/ha, cho sản lượng 3.000 – 3.500 tấn trái quýt các loại, ước giá trị sản lượng đạt 100 tỷ đồng (năm 2023). Nhờ trồng quýt, nhiều hộ dân trong xã đã thoát nghèo bền vững, hiện đang từng bước làm giàu”, bà Hồng cho biết thêm.

    Quýt Vân Sơn đổi đời nhiều hộ vùng cao Tân Lạc

    Quýt Vân Sơn cho quả rất sai, các nhà vườn đều phải dùng cọc chống đỡ cây. Ảnh: Hải Tiến.

    Ông Bùi Văn Kiều ở xóm Xôm (xã Vân Sơn) trồng 1.800 gốc quýt canh, năm nay ước thu hoạch được gần 17 tấn quả, trị giá 460 triệu đồng, trừ hết chi phí đầu tư còn dư khoảng 350 triệu đồng. Có được nguồn lợi trên, ông Kiều phải mất hơn 10 năm mở rộng dần diện tích trồng quýt. Ban đầu ông Kiều mới chỉ trồng 100 gốc quýt để rút kinh nghiệm sản xuất và nghe ngóng thị trường. Khi đã làm chủ được kỹ thuật thâm canh cây quýt và thấy sản phẩm làm ra dễ bán, hiệu quả sản xuất cao và ổn định nên ông Kiều nâng dần diện tích trồng quýt lên 1.000 gốc. Cuối cùng vào năm 2017, ông quyết định nâng tống diện tích trồng quýt tới 1.800 gốc.

    Ông Kiều bộc bạch, cây quýt trồng 3 năm mới cho quả bói, 5 năm trở ra mới cho năng suất cao. Sở dĩ ông mở rộng từng bước diện tích quýt bởi chờ có được lợi nhuận mới tái mở rộng sản xuất, không phải vay mượn vốn bên ngoài.

    Quýt Vân Sơn đổi đời nhiều hộ vùng cao Tân Lạc

    Quýt Vân Sơn mã quả rất đẹp. Ảnh: Hải Tiến.

    Cũng tại xóm Xôm, ông Bùi Văn Đường trồng 1.400 gốc quýt, vụ thu hoạch năm nay được 13 tấn quả, bán sỉ không phân loại tại vườn cho thương lái được 25.000 đồng/kg, thu về 325 triệu đồng, lợi nhuận 250 triệu đồng.

    Ông Kiều kể, quýt trồng ở đây cho quả rất sai, để đảm bảo chất lượng, ông phải cắt bớt quả trên những chùm quá dày và quả sâu bệnh, quả phát triển không cân đối. Đồng thời chăm bón chủ yếu bằng phân trâu bò ủ với chế phẩm vi sinh theo đúng hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Tân Lạc.

    Ông Hà Văn Chủng (xã Vân Sơn), một hộ trồng quýt cho biết: Để quýt bán được giá tốt, bên cạnh việc mọi người đều làm theo VietGAP, còn được tỉnh và huyện đầu tư, hỗ trợ giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ thương mại trong nước và liên tục tuyên truyền đặc sản quýt Vân Sơn trên truyền thông. Với 1.500 gốc quýt, năm nay ông Chủng thu được 14 tấn quả, doanh thu 350 triệu đồng, lợi nhuận gần 300 triệu đồng.

    Có được thu nhập cao hơn một số hộ trồng quýt trong xã là do ông Chủng tự chủ được một phần phân bón, xen canh cây đậu tương lấy hạt bón thay ure, nuôi trâu bò có phân hữu cơ, thu gom tro bếp của gia đình và người thân để thay thế một phần phân kali… Đồng thời, đất đồi ở đây khá màu mỡ, giàu khoáng chất và dinh dưỡng nên cũng giảm được khá nhiều phân hoá học (đạm, lân, kali). Kinh nghiệm trồng quýt canh của ông Chủng còn cho thấy, tốt nhất trồng cây giống quýt canh ghép mắt cam đường canh trên gốc quýt Vân Sơn bản địa (hay gọi là quýt hôi).

    Quýt Vân Sơn đổi đời nhiều hộ vùng cao Tân Lạc

    Sơ chế, phân loại quýt trước khi xuất bán cho thương lái. Ảnh: Hải Tiến.

    “Đầu vụ tôi bán được 45.000 đồng/kg quýt canh, sau giảm dần, tới giữa vụ vẫn bán được 25.000 – 30.000 đồng/kg. Giá quýt còn phụ thuộc vào khối lượng quả. Thông thường, loại nhỏ 11 – 12 quả/kg sẽ được giá 35.000 – 45.000 đồng/kg; quả nhỉnh hơn chút nữa bán 25.000 – 30.000 đồng/kg; cỡ to từ 4 – 5 quả/kg chỉ bán được 15.000 đồng/kg”, ông Chủng chia sẻ.

    Giống quýt Vân Sơn bản địa ăn hơi chua, quả chỉ nhỏ bằng trái táo, được người dân sở tại trồng nhỏ lẻ trong vườn nhà, lấy quả ăn và ngâm với rượu hoặc mật ong, uống chữa ho và viêm họng nên giá trị thương mại không cao và cũng rất khó bán ra thị trường. Do vậy từ năm 2004, Dự án Pù Luông – Cúc Phương (Việt Nam) đã tổ chức chuyển giao giống quýt canh (cam đường canh) cho một số hộ ở xã Nam Sơn cũ (nay là xã Vân Sơn) trồng trên vườn đồi.

    Nhờ thích hợp thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu địa phương, cây quýt canh sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất quả rất cao, ăn ngọt, ngon hơn khác biệt so với cam đường canh trồng ở các địa phương khác ở miền Bắc nên bà con ở đây thường gọi là quýt Vân Sơn.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 29/12/2023

    Bảng giá vàng 9999, 24K, 18K, 14K, 10K, SJC, Mi hồng, BTMC, DOJI, PNJ hôm nay 29/12/2023. Giá vàng hôm nay 29/12 tăng hay giảm? Bao nhiêu một lượng?

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 29/12/2023

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K 14K 10K SJC, Mi Hồng, DOJI, PNJ, Phú Quý, BTMC hôm nay 29/12/2023.

    Giá vàng hôm nay 29/12 trên thế giới

    Vào lúc 9h00, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco đang ở mức 2.070,8 – 2.071,3 USD/ounce. Hôm qua, thị trường vàng thế giới giảm mạnh 11,9 USD; xuống mức 2.065,3 USD/ounce.

    Kim loại quý này vẫn quay đầu tăng trở lại và vẫn đang giữ ở ngưỡng cao 2.070 USD/ounce. Trong bối cảnh, đồng USD trở lại đà giảm.

    Tại thời điểm khảo sát, DXY đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) giảm 0,11%, về mức 101,13.

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 29/12/2023

    Biểu đồ giá vàng thế giới mới nhất hôm nay 29/12/2023 (tính đến 9h00). Ảnh: Kitco.

    Giá vàng thế giới hôm nay tăng trở lại ngưỡng cao. Trước đó, kim loại quý này giảm sâu do đồng USD và lợi suất trái phiếu hồi phục.

    Chỉ số DXY đã tăng 0,2% sau khi giảm xuống mức thấp trong 5 tháng. Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm chuẩn đã tăng trở lại và thoát khỏi mức thấp nhất kể từ tháng 7.

    Giovanni Staunovo – Nhà phân tích của UBS đánh giá, việc thiếu chất xúc tác trong thời kỳ thanh khoản yếu có thể giúp vàng ổn định. Chất xúc tác tiếp theo… có thể đến từ một số báo cáo quan trọng, trong đó có chỉ số quản trị mua hàng và báo cáo việc làm vào đầu năm 2024.

    Ông cũng dự báo, kim loại quý này sẽ cao hơn trong 12 tháng tới nhờ dữ liệu kinh tế yếu hơn và lạm phát ở Mỹ hạ nhiệt buộc Fed phải cắt giảm lãi suất.

    Hiện tại, theo công cụ CME FedWatch, các nhà đầu tư đang đặt cược vào 88% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất ngay từ tháng 3.

    Như vậy, giá vàng hôm nay 29/12/2023 trên thế giới (lúc 9h00) đang giao dịch ở mức 2.071 USD/ounce.

    Giá vàng hôm nay 29/12 ở trong nước

    Trái ngược với đà tăng nhẹ trên thế giới, giá vàng trong nước hôm nay 29/12 (lúc 9h00) tiếp tục giảm sâu tới 1,5 triệu đồng/lượng.

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 29/12/2023

    Bảng giá vàng 9999, SJC, Mi Hồng, DOJI, PNJ, Phú Quý, BTMC hôm nay 29/12/2023 (tính đến 9h00)

    Cụ thể, vàng SJC tại Công ty SJC (Hà Nội) niêm yết ở mức 73,00-76,02 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giảm tới 1,5 triệu đồng/lượng ở chiều mua và bán.

    Vàng 9999 tại Tập đoàn Phú Quý niêm yết ở mức 72,20-75,80 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giảm 800 ngàn đồng/lượng ở chiều mua và chiều bán.

    Vàng PNJ tại Hà Nội và TP.HCM giao dịch ở mức 73,00-76,00 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giảm 900 ngàn đồng/lượng ở chiều mua và 1 triệu đồng/lượng ở chiều bán.

    Vàng miếng tại Bảo Tín Minh Châu giao dịch ở mức 73,00-77,20 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); đi ngang ở chiều mua và chiều bán.

    Vàng DOJI tại Hà Nội đang niêm yết quanh ngưỡng 72,00-77,50 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); không đổi ở chiều mua và bán.

    Tại TP.HCM, vàng DOJI giao dịch quanh mức 72,50-77,50 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); duy trì ổn định ở chiều mua và chiều bán.

    Còn vàng Mi Hồng niêm yết ở mức 73,00-76,00 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); đi ngang ở chiều mua nhưng giảm tới 1,5 triệu đồng/lượng ở chiều bán.

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 29/12/2023

    Biểu đồ giá vàng 9999 mới nhất hôm nay 29/12 tại Công ty SJC (tính đến 9h00).

    Giá vàng hôm nay ở trong nước tiếp tục giảm sâu và đã quay trở về ngưỡng 76 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên mức độ chênh lệch giữa mua vào và bán ra đang rất cao, có nhãn hàng chênh nhau tận 5,5 triệu đồng/lượng.

    Với việc vừa biến động mạnh lại chênh lệch giữa mua vào-bán ra cao, rủi ro cho người đầu tư vàng trong nước là rất cao.

    Mới đây, Thủ tướng chính phủ Phạm Minh Chính đã ký công điện yêu cầu Ngân hàng nhà nước về các giải pháp quản lý thị trường vàng.

    Trong đó, Thủ tướng yêu cầu không để tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế, đánh giá tổng thể, toàn diện về tình hình thị trường vàng trong nước và công tác quản lý nhà nước về thị trường vàng, bao gồm cả các nội dung về sản xuất, kinh doanh vàng miếng, vàng thương hiệu SJC, vàng trang sức…

    Thủ tướng cũng yêu cầu Ngân hàng nhà nước cần chủ động hơn nữa trong công tác thông tin, truyền thông, kịp thời cung cấp các thông tin chính thức công khai, minh bạch về chủ trương, chính sách quản lý thị trường tài chính, tiền tệ, ngoại hối và vàng.

    Như vậy, giá vàng hôm nay 29/12/2023 (lúc 9h00) ở trong nước đang niêm yết quanh mức 72,20-77,50 triệu đồng/lượng.

    Bảng giá vàng hôm nay 29/12 mới nhất

    Dưới đây là bảng giá vàng 9999 24K 18K 14K 10K SJC mới nhất hôm nay 29/12/2023 (tính đến 9h00). Đơn vị: ngàn đồng/lượng.

    LOẠI MUA VÀO BÁN RA
    TP.HCM
    Vàng SJC 1 – 10 lượng 73.000 76.000
    Vàng SJC 5 chỉ 73.000 76.020
    Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 73.000 76.030
    Vàng nhẫn SJC 9999 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 62.500 63.550
    Vàng nhẫn SJC 9999 0,5 chỉ 62.500 63.650
    Vàng nữ trang 99,99% (vàng 24K) 62.450 63.250
    Vàng nữ trang 99% (vàng 23,7K) 61.324 62.624
    Vàng nữ trang 75% (vàng 18K) 45.592 47.592
    Vàng nữ trang 58,3% (vàng 14K) 35.028 37.028
    Vàng nữ trang 41,7% (vàng 10K) 24.528 26.528
    HÀ NỘI
    Vàng SJC 73.000 76.020
    ĐÀ NẴNG
    Vàng SJC 73.000 76.020
    NHA TRANG
    Vàng SJC 73.000 76.020
    CÀ MAU
    Vàng SJC 73.000 76.020
    HUẾ
    Vàng SJC 72.970 76.020
    BIÊN HÒA
    Vàng SJC 73.000 76.000
    MIỀN TÂY
    Vàng SJC 73.000 76.000
    QUẢNG NGÃI
    Vàng SJC 73.000 76.000
    BẠC LIÊU
    Vàng SJC 73.000 76.020
    HẠ LONG
    Vàng SJC 72.980 76.020

    Bảng giá vàng 9999, 24K, 18K, 14K, 10K SJC hôm nay 29/12/2023 lúc 9h00

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Giá cà phê hôm nay 29/12/2023: Tăng sốc lên gần mốc 70.000 đ/kg

    Giá cà phê hôm nay 29/12/2023 trên thế giới và trong nước đồng loạt tăng. Trong đó, thị trường nội địa tăng nóng gần 2.000 đồng, lên ngưỡng giá 69.100 – 69.900 đ/kg.

    Giá cà phê hôm nay 29/12/2023: Tăng sốc lên gần mốc 70.000 đ/kg

    Cập nhật giá cà phê trong nước và thế giới mới nhất ngày 29/12/2023

    Giá cà phê hôm nay 29/12 trên thế giới

    Trên thế giới, sàn London và New York ngày 29/12 tiếp tục đà tăng.

    Trong đó, giá Robusta trên sàn London giao tháng 1/2024 tăng 44 USD; đạt mức 3.113 USD/tấn. Và kỳ hạn giao tháng 3/2024 trên sàn này tăng mạnh thêm 67 USD; lên mức 2.936 USD/tấn.

    Còn trên sàn New York, giá Arabica giao tháng 3/2024 tăng nhẹ 0,25 cent; lên mức 198 cent/lb. Và kỳ hạn giao tháng 5/2024 tăng thêm 0,4 cent; ở mức 195,75 cent/lb.

    Giá cà phê hôm nay 29/12/2023: Tăng sốc lên gần mốc 70.000 đ/kg

    Giá Arabica và Robusta mới nhất ngày 29/12/2023

    Giá cà phê thế giới hôm nay đồng loạt tăng, trong đó Robusta tăng mạnh sau khi có thông tin Việt Nam – quốc gia sản xuất Robusta top đầu thế giới thiếu 80.000 -15.000 tấn hàng chưa giao kịp hợp đồng.

    Trong khi đó, đồng USD tăng nhẹ trở lại đã cản đà tăng của Aribica, khiến mặt hàng này chỉ nhích nhẹ. Tại thời điểm khảo sát, chỉ số DXY đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) tăng lên mức 101,17.

    Như vậy, giá cà phê thế giới ngày 29/12/2023 đồng loạt tăng so với hôm qua.

    Giá cà phê hôm nay 29/12 ở trong nước

    Thị trường trong nước ngày 29/12 tăng nóng tới 1.900 đ/kg so với hôm qua.

    Cụ thể, tại tỉnh Lâm Đồng, 3 huyện Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà đang giao dịch cùng mức 69.100 đ/kg.

    Tại Đắk Lắk, huyện Cư M’gar hôm nay đang thu mua ở mức 69.900 đ/kg. Còn huyện Ea H’leo và Buôn Hồ lại đang giao dịch ở mức giá 69.800 đ/kg.

    Ở tỉnh Đắk Nông, thương lái Gia Nghĩa và Đắk R’lấp đang lần lượt giao dịch ở mức 69.900 và 69.800 đ/kg.

    Tại tỉnh Gia Lai, huyện Chư Prông đang giao dịch với giá 69.800 đ/kg, còn Pleiku và La Grai đang cùng giữ mức 69.700 đ/kg.

    Còn giá thu mua tại Kon Tum hôm nay đang là 69.800 đ/kg.

    Tỉnh thành Địa phương Giá cả Biến động
    Lâm Đồng Di Linh 69.100 1.700
    Lâm Hà 69.100 1.700
    Bảo Lộc 69.100 1.700
    Đắk Lắk Cư M’gar 69.900 1.700
    Ea H’leo 69.800 1.700
    Buôn Hồ 69.800 1.700
    Đắk Nông Gia Nghĩa 69.900 1.700
    Đắk R’lấp 69.800 1.700
    Gia Lai Chư Prông 69.800 1.800
    Pleiku 69.700 1.800
    La Grai 69.700 1.800
    Kon Tum   69.800 1.900

    Giá cà phê trong nước hôm nay tăng nóng, qua đó đưa mặt hàng nông sản này áp sát ngưỡng 70.000 đ/kg.

    Ông Đỗ Hà Nam – Phó Chủ tịch Vicofa nhận định, giá cà phê nội địa tăng lên mức cao nhất trong 30 năm qua dẫn tới một sự cố chưa từng có trong lịch sử là đến tháng 6, Việt Nam đã không còn hàng để xuất khẩu.

    Bên cạnh đó là sự sụt giảm một cách bất thường của diện tích trồng cà phê. Theo số liệu của Bộ NN-PTNT, nước ta hiện có trên 700.000 ha cây nông sản này, nhưng ông Nam cho rằng, số liệu thực tế có thể chỉ còn khoảng 600.000 ha và đang tiếp tục bị thu hẹp do phải cạnh tranh với các loại cây ăn quả khác như bơ, sầu riêng… có lợi nhuận cao hơn.

    Việc giá cà phê biến động khó lường đã gây ra một chuỗi khó khăn đối với các nhà xuất khẩu. Thậm chí, trong năm vừa qua, Việt Nam đã phải nhập khẩu gần 100.000 tấn cà phê từ Brazil, Indonesia để trả nợ cho các hợp đồng. Đây là điều này chưa từng có trong lịch sử của ngành cà phê Việt Nam.

    Theo ước tính của Vicofa, số lượng cà phê đã ký hợp đồng của vụ cũ nhưng chưa có hàng để giao hiện vẫn còn khoảng 80.000 – 150.000 tấn và phải chờ vụ mới để giao. Trong tháng 11/2023, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 200.000 tấn nông sản này nhưng ước tính một nửa trong số này là để trả nợ cho vụ cũ.

    Như vậy, giá cà phê trong nước ngày 29/12/2023 đang giao dịch quanh ngưỡng 69.100 – 69.900 đ/kg đ/kg.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Giá cà phê hôm nay 28/12: Đồng loạt tăng tại thị trường trong nước

    Giá cà phê hôm nay (28/12) tại thị trường trong nước tăng đồng loạt. Theo đó, mức giao dịch cao nhất trong các địa phương được khảo sát là 68.900 đồng/kg.

    Cập nhật giá cà phê trong nước

    Xem thêm: Giá cà phê hôm nay 29/12

    Theo khảo sát vào lúc 6h40, giá cà phê hôm nay đồng loạt tăng.

    Chi tiết, các địa phương đang thu mua cà phê với giá trong khoảng 68.100 – 68.900 đồng/kg.

    Cụ thể, tỉnh Lâm Đồng có giá thấp nhất là 68.100 đồng/kg, tăng 800 đồng/kg. Tiếp theo đó là Gia Lai với giá 68.800 đồng/kg, tăng 900 đồng/kg.

    Song song đó, hai tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk ghi nhận mức giao dịch là 68.900 đồng/kg, cùng tăng 900 đồng/kg. Đây cũng là mức giá cao nhất được ghi nhận trong các địa phương.

    Thị trường Trung bình Thay đổi
    Đắk Lắk 68.900 +900
    Lâm Đồng 68.100 +800
    Gia Lai 68.800 +900
    Đắk Nông 68.900 +900
    Tỷ giá USD/VND 24.100 -58

     

     

     

    Đơn vị tính: VNĐ/kg

    Tỷ giá theo ngân hàng Vietcombank

    Giá cà phê hôm nay 28/12: Đồng loạt tăng tại thị trường trong nước

     

    Cập nhật giá cà phê thế giới

    Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 1/2024 được ghi nhận tại mức 3.069 USD/tấn sau khi giảm 0,2% (tương đương 6 USD).

    Giá cà phê arabica giao tháng 3/2024 tại New York ở mức 197,75 US cent/pound sau khi tăng 1,75% (tương đương 3,4 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h40 (giờ Việt Nam).

    Giá cà phê hôm nay 28/12: Đồng loạt tăng tại thị trường trong nước

    Ảnh: Bình An

    Theo số liệu của ICO, xuất khẩu cà phê thế giới đạt 9,5 triệu bao trong tháng 10, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu cà phê nhân xanh chiếm 90,5% tỷ trọng với 8,6 triệu bao, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm ngoái. 

    Sự sụt giảm này chủ yếu đến từ cà phê robusta, một trong những nhóm cà phê khởi đầu niên vụ 2023-2024 với mức tăng trưởng âm. 

    Trong tháng đầu tiên của niên vụ mới, xuất khẩu cà phê robusta toàn cầu giảm 8% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 2,9 triệu bao. Việt Nam, nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới chỉ xuất khẩu 0,7 triệu bao trong tháng vừa qua, giảm tới 45,2% so với cùng kỳ do tồn kho cạn kiệt. 

    Ngược lại, nhóm cà phê arabica Brazil đã có một khởi đầu mạnh mẽ với khối lượng xuất khẩu tăng 10% lên hơn 4 triệu bao. Đây cũng là con số cao nhất ghi nhận được của nhóm cà phê này, vượt qua kỷ lục 3,9 triệu bao đạt được vào tháng 10/2020. 

    Đà tăng này phần lớn đến từ Brazil khi nhà cung cấp cà phê lớn nhất thế giới đã xuất khẩu 4,1 triệu bao cà phê nhân xanh trong tháng 10, tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái. 

    Xuất khẩu cà phê arabica Colombia trong tháng 10 cũng tăng nhẹ 0,2% lên hơn 1 triệu bao. Sự khởi đầu chậm chạp này là do xuất khẩu tiếp tục trì trệ ở Colombia và chỉ được bù đắp phần nào bởi sự gia tăng tại Kenya và Tanzania. 

    Xuất khẩu nhóm arabica khác giảm 1,8% xuống 1,6 triệu bao trong tháng 10. Trong đó, xuất khẩu từ Brazil giảm 66,2%; Papua New Guinea giảm 34,3%; trong khi Honduras có đóng góp tích cực nhất với mức tăng 28,9%. 

    Trong khi đó, xuất khẩu cà phê hòa tan trong tháng 10 bất ngờ tăng mạnh 16,9% lên 0,9 triệu bao. Tỷ trọng của mặt hàng này trong tổng xuất khẩu cà phê toàn cầu tăng lên mức 10,6% từ 9% của cùng kỳ năm trước. 

    Nước xuất khẩu cà phê hòa tan lớn nhất thế giới là Brazil đã vận chuyển 0,3 triệu bao ra thị trường quốc tế trong tháng vừa qua. Còn với cà phê đã rang, xuất khẩu chủng loại cà phê này đã giảm tới 20,4% trong tháng 10, xuống còn 49.185 bao.

    Bình An

    Nguồn: VietNam Biz

  • Mục tiêu xuất khẩu gỗ năm 2024 đạt 17,5 tỷ USD có khả thi?

    Bước sang năm 2024, ngành lâm nghiệp đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu quay về đỉnh cũ năm 2022, tức 17,5 tỷ USD. Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị cho rằng những chỉ tiêu này khá cao, đặc biệt trong bối cảnh xung đột chính trị đang kéo dài và khó đoán định, cả yếu tố đầu ra và đầu vào của xuất khẩu đều khó khăn.

    Ngành gỗ đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 2024 đạt 17,5 tỷ USD

    “Kế hoạch năm 2023, xuất khẩu lâm sản đạt 17,5 tỷ USD nhưng đến cuối tháng 12, kim ngạch mới đạt gần 14,5 tỷ USD. Có thể khẳng định rằng 20 năm qua, chỉ tiêu này của ngành lâm nghiệp liên tục lập đỉnh nhưng năm nay lại đi xuống.

    Đây là tín hiệu cho thấy ngành phải nhanh chóng tái cơ cấu sản phẩm này từ nguyên liệu, sản phẩm, thị trường…”, đây là chia sẻ của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Quốc Trị tại hội nghị tổng kết ngành lâm nghiệp.

    2023 là một năm khó khăn với ngành gỗ khi nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ và EU giảm mạnh dẫn đến các đơn hàng sụt giảm, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, thậm chí phải đóng cửa.

    Bước sang năm 2024, ngành lâm nghiệp đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu quay về đỉnh cũ năm 2022, tức 17,5 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2023.

    Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị cho rằng những chỉ tiêu này khá cao, đặc biệt trong bối cảnh xung đột chính trị đang kéo dài và khó đoán định, cả yếu tố đầu ra và đầu vào của xuất khẩu đều khó khăn.

    Thứ trưởng cho rằng các đơn vị ngành lâm nghiệp cần ngồi lại và rà soát lại, để những mục tiêu trở thành con số hiện thực vào cuối năm 2024.

    Mục tiêu xuất khẩu gỗ năm 2024 đạt 17,5 tỷ USD có khả thi?

     

    Tương lai “khó đoán định” của ngành gỗ năm 2024 cũng được hiệp hội,nhiều doanh nghiệp dự báo.

    Trao đổi với chúng tôi, ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) nhận định thị trường hiện đã có một số dấu hiệu hồi phục, tuy nhiên năm 2024 vẫn tiềm ẩn một số rủi ro cho ngành.

    “Năm 2024, ngành gỗ vẫn nằm trong thế có nhiều bất ổn. Về tổng thể, ngành gỗ có tăng trưởng nhưng chậm và không nhiều, khoảng 10-12% so với những quý cuối năm 2023.

    Giải pháp trọng tâm nhất trong năm 2024 đó là tạo ra hình ảnh ngành gỗ Việt Nam là phát triển bền vững, dựa trên yếu tố cơ bản đó là sử dụng gỗ có chứng chỉ và sản phẩm giảm phát thải”, ông Đỗ Xuân Lập nhận định.

    Bên cạnh khó khăn về đầu ra thị trường, ngành đang đối mặt với một số vấn đề thời sự ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững của ngành, đặc biệt là quy định chống phá rừng của EU, sản phẩm gỗ có phát thải carbon thấp, rủi ro về nguyên liệu gỗ nhập khẩu.

    Cùng với sự suy giảm của thị trường, những quy định mới nêu trên cho thấy 2024 có thể sẽ tiếp tục là một năm khó khăn của ngành gỗ.

    Còn theo ông Nguyễn Liêm, Chủ tịch CTCP Gỗ Lâm Việt, triển vọng xuất khẩu gỗ chưa rõ ràng, đơn hàng cho đầu năm 2024 đã có nhưng nhà máy vẫn chưa chạy hết công suất nhà máy.

    “Quý III, quý IV năm nay, đơn hàng có tăng nhưng đây là đơn hàng bù vào giảm tồn kho của Mỹ, EU và phục vụ cho dịp lễ Noel, Tết Dương lịch, chứ không phải đơn hàng bền vững. Tín hiệu này chưa thể đánh giá được triển vọng năm 2024”, ông Nguyễn Liêm chia sẻ.

    Mỹ vẫn là thị trường chiến lược

    Sau khi căng thẳng thương mại Mỹ – Trung xảy ra vào năm 2018, Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc và trở thành nguồn cung đồ nội thất lớn nhất cho thị trường Mỹ.

    Mục tiêu xuất khẩu gỗ năm 2024 đạt 17,5 tỷ USD có khả thi?

     

    Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Viforest cho biết Mỹ là quốc gia tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới, quy mô 24-25 tỷ USD/năm. Đây là thị trường chiến lược, quyết định tăng trưởng của ngành gỗ, chiếm khoảng 50-55% tổng kim ngach xuất khẩu lâm sản của Việt Nam.

    Phó Chủ tịch Viforest cho biết Bộ Thương mại Mỹ tiếp tục áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp với một số mặt hàng nội thất của Trung Quốc. Điều này tạo ra lợi thế cho ngành gỗ Việt Nam.

    Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần lưu ý nguy cơ Mỹ bị điều tra lẩn tránh thuế chống bán phá giá với một số mặt hàng gỗ của Việt Nam. Ông Hoài nhấn mạnh Việt Nam xuất khẩu gỗ sang Mỹ càng nhiều, rủi ro bị áp đặt thuế càng lớn.

    Mục tiêu xuất khẩu gỗ năm 2024 đạt 17,5 tỷ USD có khả thi?

    (Nguồn: Tổng cục Hải quan, Đồ họa: Phạm Mơ)

    Ông Phạm Quang Huy, Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại Mỹ cho biết lạm phát tại thị trường Mỹ hiện đã hạ nhiệt, việc làm của người lao động đang tăng lên, đặc biệt là mảng xây dựng, điều này cho thấy xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Mỹ có thể tăng trưởng trở lại.

    Mặt khác, tỷ lệ hàng tồn kho tại Mỹ dự báo đến cuối năm 2023 sẽ giảm dần. Đây là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ vào thị trường này trong thời gian tới.

    “Nhà nhập khẩu đang mua hàng trở lại, tuy nhiên đơn hàng sẽ không còn lớn như trước đây. Để thị trường phục hồi tốt như trước và trong đại dịch phải cần thêm thời gian”, ông Huy nói.

    Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại Mỹ lưu ý môi trường pháp lý của Mỹ yêu cầu các sản phẩm gỗ nhập khẩu đảm bảo yếu tố bảo vệ môi trường, an toàn, doanh thu và thương mại công bằng.

    “Mỹ không muốn có sản phẩm nào gây hại cho cảnh quan và rừng do các loài dịch hại xâm lấn, cũng như hàng buôn bán bất hợp pháp gây ảnh hưởng người tiêu dùng.

    Ngoài ra, Mỹ cũng có những biện pháp chống bất lợi cho ngành công nghiệp trong nước, thông qua thuế chống bán phá giá, buôn bán bất hợp pháp…”, ông Huy nói.

    Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại Mỹ khuyến cáo các doanh nghiệp tuân thủ Nghị định 102 về hệ thống gỗ hợp pháp Việt Nam và thỏa thuận 301 giữa hai nước về khai thác và thương mại gỗ bất hợp pháp.

    Trong đó, doanh nghiệp cần nhanh chóng cải thiện hệ thống quản trị, tăng cường trách nhiệm giải trình để quản trị rủi ro, minh bạch thông tin đầu ra – đầu vào bằng phần mềm kế toán thông minh, đồng thời theo dõi các vụ việc phòng việc thương mại trong ngành để có giải pháp ứng phó.

    Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phát triển sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật, tính sáng tạo cao, thân thiện với môi trường… để tăng sức cạnh tranh ở thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới này.

    Phạm Mơ

    Nguồn: VietNam Biz

  • Xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản dự kiến thu về 1,5 tỷ USD trong năm 2023

    VASEP cho rằng nhu cầu tiêu thụ thủy sản của Nhật Bản được dự báo không có sự đột phá trong năm 2024, tuy nhiên vẫn ổn định hơn các thị trường lớn khác như Mỹ, EU, Trung Quốc…

    Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (VASEP) cho biết 11 tháng năm 2023, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản đạt gần 1,4 tỷ USD, giảm 12% so với cùng kỳ năm 2022.

    VASEP ước tính cả năm 2023, xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản sẽ thu về trên 1,5 tỷ USD, giảm 12% so với năm 2022. Đồng thời, Nhật Bản nằm trong top 2 thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam, chỉ sau Mỹ. Trong khi top 5 thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, Nhật Bản có mức giảm thấp nhất, chỉ 12%.

    Xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản dự kiến thu về 1,5 tỷ USD trong năm 2023

     (Nguồn: Tổng cục Hải quan, Đồ họa: Hoàng Anh). 

    Sau hơn hai thập kỷ giá cả ổn định hoặc giảm, giá thực phẩm ở Nhật đã trải qua đợt tăng giá liên tục trong hơn 1,5 năm qua, do các yếu tố địa chính trị toàn cầu cũng như sự suy yếu đáng kể của đồng yên Nhật so với đồng USD.

    Kể từ tháng 3, giá thực phẩm đã tăng với tốc độ hơn 8% so với cùng kỳ năm ngoái với một số sản phẩm tăng ở mức hai con số.

    Chính phủ Nhật Bản cho rằng chi phí nhiên liệu, thức ăn và nguyên liệu dùng trong thủy sản tăng cao là nguyên nhân gây ra lạm phát trên thị trường thủy sản.

    Đặc biệt, giá bột cá, thành phần chính trong thức ăn hỗn hợp cho nuôi trồng thủy sản, đã dao động quanh mức 1.540 USD/tấn kể từ năm 2022, gần gấp đôi so với một thập kỷ trước.

    Kể từ tháng 1/2022, giá bán lẻ cá ngừ, tôm, cá ngừ và cá hồi đã tăng đáng kể. Năm 2022, chỉ số giá tiêu dùng chung đối với thủy sản tăng 14% so với năm 2021, đánh dấu mức tăng lớn nhất kể từ năm 2010. Chính phủ Nhật Bản ước tính rằng người tiêu dùng thủy sản bình quân đầu người đã giảm 14% vào năm 2022.

    Tiêu thụ giảm, một phần do giá tăng cũng như sở thích của người tiêu dùng chuyển sang các loại protein khác như thịt bò, thịt heo và thịt gà đã trở nên dễ tiếp cận hơn.

    Tiêu thụ hải sản tại nhà thậm chí còn giảm nhanh hơn. Tiêu dùng hộ gia đình đứng ở mức khoảng 14 kg bình quân đầu người vào năm 1995, giảm hơn 40% xuống chỉ còn dưới 8 kg bình quân đầu người vào năm 2021.

    Do đó, các nhà sản xuất và bán lẻ Nhật Bản đang nỗ lực nhiều hơn để phát triển các sản phẩm thủy sản dễ chế biến và mang những đặc tính có giá trị gia tăng để giải thích cho cho sự tăng giá.

    Trước thực trạng tiêu dùng thủy sản giảm sút, các tổ chức chính quyền quốc gia và địa phương đã hợp tác với các trường học để thúc đẩy việc đưa hải sản vào bữa trưa ở trường.

    VASEP cho biết các dự báo về tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trong năm 2024 không có sự đồng nhất, nhưng nhìn chung sẽ không có sự đột phá ở thị trường này về mặt nhu cầu. Tuy vậy so với các thị trường lớn khác như Mỹ, EU, Trung Quốc, thương mại thủy sản với Nhật Bản được đánh giá là ổn định hơn.

    VASEP khuyến cáo các doanh nghiệp Việt phải tính toán kỹ hơn bài toán về giá thành và giá bán cạnh tranh, đồng thời tận dụng xu hướng tiêu thụ tại Nhật Bản.

    Hoàng Anh

    Nguồn: VietNam Biz

  • Giá cá chẽm tụt dốc, thương lái bỏ cọc chẳng màng thu mua

    SÓC TRĂNG Cá chẽm là đối tượng nuôi cho hiệu quả kinh tế cao, được nông dân Sóc Trăng phát triển mạnh. Thế nhưng hiện giá cá chỉ bằng hoặc thấp hơn giá thành sản xuất.

    7.000 mét vuông ao nuôi cá chẽm của ông Trịnh Tấn Phát ở khóm Trà Niên, phường Khánh Hòa, thị xã Vĩnh Châu (Sóc Trăng) chuẩn bị thu hoạch. Dù vụ nuôi năm nay được đánh giá thuận lợi, năng suất cá đạt cao, thế nhưng mức giá thu mua lại rất thấp.

    Cụ thể, 9 tháng đầu năm 2023, giá cá chẽm ở mức cao từ 75.000 – 85.000 đồng/kg (tùy kích cỡ), có thời điểm chạm mức 90.000 đồng/kg.

    Giá cá chẽm tụt dốc, thương lái bỏ cọc chẳng màng thu mua

    Nhiều nông dân ở thị xã Vĩnh Châu (tỉnh Sóc Trăng) lo lắng khi cá chẽm đến ngày thu hoạch nhưng cầm chắc từ huề vốn đến thua lỗ. Ảnh: Kim Anh.

    Thế nhưng hiện giá 1kg cá chẽm chỉ còn khoảng 60.000 – 65.000 đồng, giảm 15.000 – 25.000 đồng/kg so với mọi năm. Trong khi đó, theo tính toán của các hộ nuôi, tất cả chi phí đầu tư cho một vụ nuôi (tùy theo quy mô, điều kiện nuôi) cũng tăng theo lợi nhuận, trung bình từ 65.000 – 75.000 đồng/kg. Với mức giá hiện tại, có thể nói lợi nhuận của hộ nuôi cá chẽm bằng không.

    Đáng nói, nhiều thương lái dù đã đặt cọc thu mua cá từ trước cho bà con nhưng khi giá sụt giảm đã bỏ hẳn tiền cọc, không thu mua. Việc tìm thấy một thương lái để thu mua cá cũng rất hiếm hoi.

    “Thương lái hứa rồi mà giờ thấy giá thấp, không có lời nên họ không đến thu mua, gọi hoài cũng không nghe máy”, ông Phát lo lắng chia sẻ.

    Tương tự, tại ao nuôi của ông Lương Văn Biên cùng ngụ phường Khánh Hòa (thị xã Vĩnh Châu), sau nhiều vụ nuôi tôm gặp thất bại, gia đình ông đã chuyển hẳn 3.500m2 sang thả nuôi cá chẽm.

    Cá đến ngày thu hoạch nhưng gia đình ông buộc phải treo ao chờ giá, đồng nghĩa phải kéo dài thời gian nuôi, đội chi phí thức ăn tiếp tục tăng cao. “Càng neo lại càng rầu”, đó là tâm trạng của nông dân này cũng như nhiều hộ nuôi cá chẽm lân cận.

    Ông Võ Điền Trung Dũng, Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Đại Ngư Nghiệp ở xã Liêu Tú, huyện Trần Đề – người được mệnh danh là “vua cá chẽm” ở vùng đất Sóc Trăng cho biết, trước bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, con cá chẽm cũng đang chịu chung tình cảnh. Xuất khẩu giảm, nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng yếu đi, trong khi đó, sản lượng cá chẽm năm 2023 lại có phần gia tăng so với mọi năm, khiến giá sụt giảm.

    Giá cá chẽm tụt dốc, thương lái bỏ cọc chẳng màng thu mua

    Cá chẽm là một trong những đối tượng thủy sản nước lợ phát triển mạnh ở tỉnh Sóc Trăng những năm gần đây. Ảnh: Kim Anh.

    Ông Dũng cũng khẳng định, tuy giá cá sụt giảm mạnh nhưng nhu cầu thị trường đối với mặt hàng cá chẽm vẫn cao. Việc thu mua và xuất bán cá ở cả thị trường trong và ngoài nước đều thuận lợi.

    “Tình hình tiêu thụ thời gian tới phụ thuộc vào tiêu dùng thế giới cũng như trong nước, ít nhất hết quý I, II của năm 2024 mới có thể hình dung được. Hiện công ty chúng tôi vẫn đều đặn thu mua cá chẽm cho hộ nuôi”, ông Dũng cho hay.

    Công ty TNHH một thành viên Đại Ngư Nghiệp là doanh nghiệp tiên phong đưa con cá chẽm xuất khẩu đến thị trường EU, Mỹ, Canada, Campuchia, Thái Lan… với sản lượng hàng năm khoảng 1,5 – 2 nghìn tấn theo hình thức xuất khẩu nguyên con và file.

    Phong trào nuôi các loại cá nước lợ bắt đầu phát triển mạnh ở tỉnh Sóc Trăng từ cuối năm 2011. Đây được xem là giải pháp đa dạng hóa đối tượng thủy sản nuôi ở thời điểm nghề nuôi tôm liên tục gặp khó khăn do giá thành tăng cao và tình hình dịch bệnh. Đối tượng nuôi cá nước lợ rất đa dạng, phong phú và khả năng phát triển diện tích rất cao do những điều kiện thích hợp sẵn có từ những vùng nuôi tôm.  Tuy nhiên cũng từ đó, diện tích nuôi cá chẽm ngày càng được mở rộng, thiếu bền vững, diện tích thả nuôi và sản lượng cá thu hoạch so với nhu cầu thị trường lại chưa cân đối.

    Bà Quách Thị Thanh Bình, Chi cục trưởng, Chi cục Thủy sản tỉnh Sóc Trăng cho biết, để ổn định cung – cầu mặt hàng cá chẽm một cách hợp lý, vấn đề quan trọng là hình thành các chuỗi liên kết từ đầu vào đến đầu ra thông qua việc kết nối người nuôi tham gia vào các tổ hợp tác, hợp tác xã.

    Giá cá chẽm tụt dốc, thương lái bỏ cọc chẳng màng thu mua

    Chi cục Thủy sản tỉnh Sóc Trăng khuyến cáo, bà con nông dân cần tham gia liên kết với doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra, giảm thiểu thiệt hại khi giá cả biến động. Ảnh: Kim Anh.

    Vừa qua, tỉnh Sóc Trăng đã phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ tiến hành nghiên cứu về các đặc điểm sinh học để tạo ra nguồn giống chất lượng đối với các đối tượng cá nước lợ. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp tỉnh cũng phối hợp với các đơn vị tư vấn, chứng nhận tiến hành chứng nhận một số đối tượng theo quy chuẩn quốc tế để đáp ứng các đơn đặt hàng từ đơn vị nước ngoài, đảm bảo sản lượng xuất khẩu ổn định.

    Đồng thời, Chi cục Thủy sản tỉnh đã phối hợp với các nhà máy chế biến thúc đẩy chế biến sâu đối với các mặt hàng làm từ các loại cá nước lợ để góp phần giải quyết tình trạng khó khăn khi tiêu thụ sản phẩm.

    Việc đa dạng hóa đối tượng thủy sản là hướng đi phù hợp nhằm khai thác tối đa dư địa sẵn có từ lợi thế thổ nhưỡng và sự đa dạng về vùng sinh thái của tỉnh Sóc Trăng. Thế nhưng, cần phải có các giải pháp mang tính lâu dài, nông dân phải sản xuất theo hướng có liên kết để nghề nuôi cá chẽm nói riêng và cá nước lợ nói chung không còn là nghề “may rủi”.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam