Blog

  • Bộ NN&PTNT: Giải gạo ngon nhất thế giới 2023 trao chung cho Việt Nam, không phải giống lúa, doanh nghiệp riêng lẻ

    Ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt khẳng định giải gạo ngon nhất thế giới là giải quốc gia, trao chung cho Việt Nam, chứ không phải của riêng một doanh nghiệp cụ thể.

    Bộ NN&PTNT: Giải gạo ngon nhất thế giới 2023 trao chung cho Việt Nam, không phải giống lúa, doanh nghiệp riêng lẻ

    Ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT). (Ảnh: Báo Nông nghiệp Việt Nam)

    Liên quan đến cuộc thi gạo ngon nhất thế giới 2023 do The Rice Trader tổ chức, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết theo điều lệ của cuộc thi, từ năm 2022 đến nay, ban tổ chức không trao giải cho một giống lúa cụ thể, mà trao giải cho gạo quốc gia.

    Như năm 2022, gạo Campuchia đoạt giải Nhất. Còn năm 2023, gạo Việt Nam đạt giải Nhất, đứng sau là Campuchia và Ấn Độ.

    “Điều này có nghĩa là ban tổ chức trao giải thưởng cho gạo Việt Nam, chứ không trao giải thưởng cho một giống gạo cụ thể của một doanh nghiệp cụ thể”, ông Nguyễn Như Cường nói.

    Trong cuộc thi năm nay, Việt Nam có ba doanh nghiệp và 6 mẫu gạo tham gia giải thưởng. Theo đó, doanh nghiệp Hồ Quang – Hồ Quang Trí gửi hai mẫu gạo ST 24, ST 25; Tập đoàn Lộc Trời gửi hai mẫu gạo LT28 và Nàng Hoa9, Tập đoàn ThaiBinh Seed gửi hai mẫu gạo TBR39-1 và nếp A Sào.

    Trước đó năm 2019, gạo ST25 thuộc sở hữu của doanh nghiệp Hồ Quang – Hồ Quang Trí đã đạt giải gạo ngon nhất thế giới. Thời điểm này, cuộc thi vẫn áp dụng thông lệ trao giải cho giống lúa của doanh nghiệp cụ thể.

    Phạm Mơ

    Nguồn: VietNam Biz

  • Giá lúa gạo hôm nay 1/12: Gạo biến động trái chiều 500 đồng/kg

    Theo ghi nhận, giá lúa gạo hôm nay (1/12) biến động không đồng nhất ở mặt hàng gạo. Đến 2030, hình thành một triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại ĐBSCL.

    Giá lúa gạo hôm nay

    Theo khảo sát mới nhất tại An Giang, giá lúa hôm nay (1/12) lặng sóng.

    Hiện, giá lúa Nhật tiếp tục trong khoảng 7.800 – 8.000 đồng/kg và giá lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 15.000 đồng/kg, tương ứng cho khoảng giá thấp nhất và cao nhất trong các giống.

    Bên cạnh đó, mặt hàng nếp ổn định. Hiện, giá nếp 3 tháng (tươi) là 7.600 – 7.700 đồng/kg. Nếp Long An (tươi) có giá trong khoảng 7.500 – 7.750 đồng/kg. Giá nếp ruột trong khoảng 16.000 – 20.000 đồng/kg. Nếp Long An (khô) và nếp AG (khô) tạm dừng khảo sát trong hôm nay. 

    Giá lúa

    ĐVT

    Giá mua của thương lái (đồng)

    Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

    – Nếp 3 tháng (tươi)

    kg

    7.600 – 7.700

    – Nếp Long An (tươi)

    kg

    7.500 – 7.750

    – Nếp AG (khô)

    kg

    – Nếp Long An (khô)

    kg

    – Lúa IR 50404

    kg

    8.700 – 8.900

    – Lúa Đài thơm 8

    kg

    9.100 – 9.300

    – Lúa OM 5451

    kg

    9.000 – 9.200

    – Lúa OM 18

    kg

    9.100 – 9.200

    – Nàng Hoa 9

    kg

    9.100 – 9.200

    – OM 380

    Kg

    8.800

    – Lúa Nhật

    kg

    7.800 – 8.000

    – Lúa IR 50404 (khô)

    kg

    – Lúa Nàng Nhen (khô)

    kg

    15.000

    Giá gạo

     

    Giá bán tại chợ

    (đồng)

    Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

    – Nếp ruột

    kg

    16.000 – 20.000

    – Gạo thường

    kg

    15.500 – 16.500

    – Gạo Nàng Nhen

    kg

    26.000

    – Gạo thơm thái hạt dài

    kg

    19.000 – 20.000

    – Gạo thơm Jasmine

    kg

    17.500 – 18.500

    – Gạo Hương Lài

    kg

    19.500

    +500

    – Gạo trắng thông dụng

    kg

    17.000

    – Gạo Nàng Hoa

    kg

    19.500

    – Gạo Sóc thường

    kg

    18.000 – 19.000

    – Gạo Sóc Thái

    kg

    18.500

    -500

    – Gạo thơm Đài Loan

    kg

    21.000

    – Gạo Nhật

    kg

    22.000

    – Cám

    kg

    9.000 – 10.000

    Bảng giá lúa gạo hôm nay 1/12 tại tỉnh An Giang. (Nguồn: Sở NN&PTNT An Giang)

    Tại chợ An Giang, giá gạo biến động trái chiều. Cụ thể, gạo Sóc Thái giảm 500 đồng/kg về mức 18.500 đồng/kg. Ngược lại, gạo Hương Lài có giá tăng 500 đồng/kg đạt 19.500 đồng/kg. 

    Trong khi đó, gạo thường có giá ổn định trong khoảng 15.500 – 16.500 đồng/kg.

    Giá lúa gạo hôm nay 1/12: Gạo biến động trái chiều 500 đồng/kg

     

    Giá cám được duy trì trong khoảng 9.000 – 10.000 đồng/kg.

    Giá lúa gạo hôm nay 1/12: Gạo biến động trái chiều 500 đồng/kg

    Ảnh minh họa: Anh Thư

    Hình thành một triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao tại ĐBSCL

    Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã ký Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11 phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”.

    Mục tiêu cụ thể đến năm 2030, diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt một triệu ha, theo báo Kiên Giang.

    Về canh tác bền vững, giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống dưới 70kg/ha, giảm 30% lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống.

    Về tổ chức sản xuất, 100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã hoặc các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; tỷ lệ cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 70% diện tích; trên một triệu hộ áp dụng quy trình canh tác bền vững.

    Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch dưới 8%; 100% rơm được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng; giảm trên 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống.

    Anh Thư

    Nguồn: VietNam Biz

  • Lần đầu tiên Festival Quốc tế ngành lúa gạo diễn ra ở Việt Nam

    Sau nhiều sự kiện Festival lúa gạo thuộc cấp vùng và địa phương, năm 2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phối hợp cùng UBND tỉnh Hậu Giang, lần đầu tiên tổ chức một sự kiện ngành hàng lúa gạo ở tầm quốc tế.

    Sáng 1/12, tại TP HCM, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN-PTNT), Hoàng Trung và Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, Đồng Văn Thanh, đã chủ trì họp báo Festival Quốc tế ngành hàng lúa gạo Việt Nam – Hậu Giang 2023. Đây là lần đầu tiên, Festival Quốc tế ngành hàng lúa gạo Việt Nam được tổ chức tại Hậu Giang. Sự kiện diễn ra từ trong 4 ngày, từ ngày 11-14/12, tại thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

    Thứ trưởng Hoàng Trung nói: “Festival này là một sự kiện ý nghĩa, quan trọng, khẳng định vai trò, định vị ngành hàng lúa gạo Việt Nam trong nước cũng như khu vực quốc tế”.

    Ông Ngô Thế Hiên, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN-PTNT) cho biết, trong 11 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt con số kỷ lục với giá trị là 4,4 tỷ USD, tăng 36,3%; về lượng đạt 7,75 triệu tấn. Đại diện Bộ Nông Nghiệp cho rằng sự kiện sẽ giới thiệu thành tựu của ngành hàng lúa gạo, sự đóng góp của nông dân, nhà khoa học, hợp tác xã, cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan quản lý.

    Lần đầu tiên Festival Quốc tế ngành lúa gạo diễn ra ở Việt Nam

    Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoàng Trung (giữa) và Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, Đồng Văn Thanh (trái), chủ trì phiên họp báo (Ảnh: Ban tổ chức)

     

    Ban tổ chức kỳ vọng sự kiện này sẽ tạo cơ hội giới thiệu tiềm năng, thế mạnh sản xuất, chất lượng hạt gạo và tạo đà thúc đẩy cho thương mại lúa gạo quốc gia. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để Việt Nam đưa ra thông điệp với thế giới về một quốc gia có trách nhiệm với nền lương thực, thực phẩm toàn cầu.

    Theo đại diện Bộ Nông nghiệp, Festival Quốc tế ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2023 sẽ đón tiếp 200 khách quốc tế đến từ hơn 39 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó có các lãnh đạo Bộ và đại sứ nhiều nước có ngành lúc gạo phát triển, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank), các viện phát triển nông nghiệp thế giới. Tại buổi họp báo, BTC xác nhận sự tham gia của các Bộ trưởng của 8 quốc gia, 7 Đại sứ…

    Ngoài ra, sự kiện ở Hậu Giang sẽ có ký kết giữa World Bank với Chính phủ Việt Nam về những cam kết hỗ trợ thực hiện “Đề án Phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Ngoài ra, sự kiện còn có hàng loạt cuộc ký kết giữa cấp Bộ về vấn đề giống, các ký kết song phương với các nhà nhập khẩu.

    Thuỳ Trang

    Nguồn: VietNam Biz

  • Giá cà phê hôm nay 1/12: Tăng hơn 1.000 đồng/kg, chạm mốc 60.000 đồng/kg

    Giá cà phê hôm nay (1/12) tại thị trường trong nước tăng 1.100 – 1.200 đồng/kg. Theo đó, mức giao dịch cao nhất trong các địa phương lên mức 60.000 đồng/kg.

    Cập nhật giá cà phê trong nước

    Theo khảo sát giacaphe.com vào lúc 09h20, giá cà phê hôm nay tăng cao nhất 1.200 đồng/kg.

    Cụ thể, các địa phương đang thu mua cà phê với giá trong khoảng 58.900 – 60.000 đồng/kg.

    Cụ thể, tỉnh Lâm Đồng có giá thấp nhất là 58.900 đồng/kg, tăng 1.100 đồng/kg. Tiếp đến là Gia Lai với 59.800 đồng/kg, tăng 1.100 đồng/kg.

    Tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông giao dịch ở mức 60.000 đồng/kg, tương ứng tăng 1.100 đồng/kg và 1.200 đồng/kg.

    Thị trường

    Trung bình

    Thay đổi

    Đắk Lắk

    60.000

    +1.100

    Lâm Đồng

    58.900

    +1.100

    Gia Lai

    59.800

    +1.100

    Đắk Nông

    60.000

    +1.200

    Tỷ giá USD/VND

    24.060

    -10

    Đơn vị tính: VNĐ/kg

    Tỷ giá theo ngân hàng Vietcombank

    Giá cà phê hôm nay 1/12: Tăng hơn 1.000 đồng/kg, chạm mốc 60.000 đồng/kg

     

    Cập nhật giá cà phê thế giới

    Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 1/2024 được ghi nhận tại mức 2.611 USD/tấn sau khi tăng 3,49% (tương đương 88 USD).

    Giá cà phê arabica giao tháng 3/2024 tại New York ở mức 184,7 US cent/pound sau khi tăng 6,95% (tương đương 12 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 7h00 (giờ Việt Nam).

    Giá cà phê hôm nay 1/12: Tăng hơn 1.000 đồng/kg, chạm mốc 60.000 đồng/kg

    Ảnh: Anh Thư

    Post điều chỉnh con số xuất khẩu cà phê MY 2023 – 2024 của Colombia lên 12 triệu bao GBE, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Sự gia tăng thương mại được thúc đẩy bởi sự phục hồi dự kiến trong sản xuất, theo USDA. 

    Trong niên vụ 2022 – 2023 của MY, Post điều chỉnh xuất khẩu cà phê xuống 10,7 triệu bao GBE, phản ánh thực tế thị trường. Nguồn cung thắt chặt đã dẫn đến xuất khẩu thấp hơn trong năm thị trường hiện tại.

    Cà phê Colombia được xuất khẩu sang hơn 40 quốc gia. Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu chính với hơn 40% thị phần, tiếp theo là Liên minh Châu Âu, Nhật Bản và Canada. Trong MY vừa qua (2022 – 2023), cà phê xanh chiếm 89% tổng lượng cà phê xuất khẩu, tiếp theo là cà phê hòa tan (9%) và cà phê rang (2%).

    Đối với năm thị trường 2023 – 2024, Post điều chỉnh nhập khẩu cà phê của Colombia cao hơn 9,6% lên 2,5 triệu bao. Nhập khẩu cà phê sẽ vẫn ở mức cao để đáp ứng nhu cầu địa phương do sản xuất cà phê Colombia tiếp tục ưu tiên thị trường xuất khẩu.

    Nhập khẩu cà phê trong niên vụ 2022 – 2023 ước tính thấp hơn 2,3 triệu bao GBE, giảm 9% để phản ánh thực tế thị trường. Năm 2018, Brazil trở thành nhà cung cấp cà phê nhập khẩu hàng đầu cho Colombia và trong MY 2022 – 2023 chiếm gần 80% thị phần. 

    Nhập khẩu chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu cà phê hòa tan và chất lượng kém hơn trên thị trường. Colombia chủ yếu nhập khẩu cà phê xanh (91%), tiếp theo là cà phê hòa tan (8%) và cà phê rang (1%).

    Anh Thư

    Nguồn: VietNam Biz

  • Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 1/12/2023

    Bảng giá vàng 9999, 24K, 18K, 14K, 10K, SJC, Mi hồng, BTMC, DOJI, PNJ hôm nay 1/12/2023. Giá vàng hôm nay 1/12 tăng hay giảm? Bao nhiêu một lượng?

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 1/12/2023

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K 14K 10K SJC, Mi Hồng, DOJI, PNJ, Phú Quý, BTMC hôm nay 1/12/2023

    Giá vàng hôm nay 1/12 trên thế giới

    Vào lúc 9h30, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco đang ở mức 2.042,6 – 2.043,1 USD/ounce. Hôm qua, thị trường vàng thế giới giảm về mức 2035,7 USD/ounce.

    Kim loại quý này tăng nhẹ và nằm trên ngưỡng 2.040 USD/ounce. Trong bối cảnh, đồng USD vẫn đang ở mức thấp.

    Tại thời điểm khảo sát, DXY đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) giảm 0,2%, xuống mức 103,30.

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 1/12/2023

    Biểu đồ giá vàng thế giới mới nhất hôm nay 1/12/2023 (tính đến 9h30). Ảnh: Kitco

    Giá vàng thế giới hôm nay vẫn giữ ở ngưỡng cao trong bối cảnh đồng USD đang nằm ở mức thấp. Dẫu vàng đã kết thúc tháng 11/2023 trên 2.000 USD/ounce, nhưng các chuyên gia của TD Securities lại đánh giá rằng, có thể đây chỉ là khởi đầu cho đà tăng bền vững trên 2.100 USD/ounce trong năm 2024 của vàng khi những trở ngại từ sức mạnh của đồng USD và lợi suất trái phiếu cao giảm dần.

    Trong báo cáo triển vọng vàng năm 2024, các nhà phân tích hàng hóa của ngân hàng Canada này cho biết, họ dự đoán giá vàng sẽ đạt trung bình khoảng 2.019 USD/ounce trong năm 2024.

    Mặc dù lạc quan về vàng trước thềm năm mới nhưng các chuyên gia cũng khuyên, các nhà đầu tư phải kiên nhẫn. Các nhà phân tích dự đoán giá vàng sẽ tăng lên 2.100 USD vào quý II năm sau.

    “Với lạm phát vẫn cao hơn đáng kể so với mục tiêu 2% của Fed, Ngân hàng Trung ương Mỹ khó có thể đưa ra tín hiệu về việc nới lỏng. Do đó, kim loại màu vàng có thể bị giới hạn trong phạm vi mà không có sự bứt phá bền vững hướng tới mục tiêu 2.100 USD/ounce như dự đoán của chúng tôi”, họ giải thích.

    Các nhà phân tích cho biết, mặc dù lạm phát đã giảm mạnh so với mức cao nhất trong 40 năm được ghi nhận vào tháng 6/2022 nhưng nó vẫn cao hơn nhiều so với mục tiêu 2% mà Fed đặt ra.

    Vào thứ 3 tuần này, Bộ Thương mại Mỹ cho biết, PCE cốt lõi, thước đo lạm phát ưa thích của Fed, đã tăng 3,5% trong 12 tháng qua tính đến tháng 10.

    Các nhà phân tích tại TDS tin rằng, lạm phát dai dẳng có thể buộc Fed phải duy trì lãi suất trong phạm vi hạn chế trong nửa đầu năm tới.

    Tuy nhiên, các nhà phân tích cũng lưu ý rằng Fed bóp nghẹt nền kinh tế để hạ nhiệt lạm phát càng lâu thì khả năng suy thoái kinh tế sẽ càng nghiêm trọng. Ngân hàng Canada nhận thấy, nền kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy thoái vào quý II năm sau, buộc ngân hàng trung ương phải cắt giảm đáng kể lãi suất.

    Như vậy, giá vàng hôm nay 1/12/2023 trên thế giới (lúc 9h30) đang giao dịch ở mức 2.043 USD/ounce.

    Giá vàng hôm nay 1/12 ở trong nước

    Giá vàng trong nước hôm nay 1/12 (lúc 9h30) chủ yếu đi ngang so với hôm qua.

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 1/12/2023

    Bảng giá vàng 9999, SJC, Mi Hồng, DOJI, PNJ, Phú Quý, BTMC hôm nay 1/12/2023 (tính đến 9h30)

    Cụ thể, vàng SJC tại Công ty SJC (Hà Nội) niêm yết ở mức 72,40-73,62 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giữ nguyên ở chiều mua và bán.

    Vàng 9999 tại Tập đoàn Phú Quý niêm yết ở mức 72,40-73,60 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); duy trì ổn định ở chiều mua và chiều bán.

    Vàng PNJ tại Hà Nội và TP.HCM đang giao dịch ở mức 72,40-73,60 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); đi ngang ở chiều mua và bán.

    Vàng miếng tại Bảo Tín Minh Châu giao dịch ở mức 72,45-73,58 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); duy trì ổn định ở chiều mua và chiều bán.

    Vàng DOJI tại Hà Nội niêm yết quanh ngưỡng 72,40-73,80 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giữ nguyên ở chiều mua và bán.

    Tại TP.HCM, vàng DOJI đang niêm yết ở mức 72,50-73,50 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giảm 100 ngàn đồng/lượng ở chiều mua và chiều bán.

    Còn vàng Mi Hồng niêm yết ở mức 72,60-73,40 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); tăng 300 ngàn đồng/lượng ở chiều mua và 100 ngàn đồng/lượng ở chiều bán.

    Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 1/12/2023

    Biểu đồ giá vàng 9999 mới nhất hôm nay 1/12 tại Công ty SJC (tính đến 9h30)

    Với tỷ giá USD hiện tại (ở mức 24,440 VND/USD), thị trường vàng trong nước hiện đang cao hơn thế giới tới 13,192 triệu đồng/lượng.

    Như vậy, giá vàng hôm nay 1/12/2023 (lúc 9h30) ở trong nước đang niêm yết quanh mức 72,40-73,80 triệu đồng/lượng.

    Bảng giá vàng hôm nay 1/12 mới nhất

    Dưới đây là bảng giá vàng 9999 24K 18K 14K 10K SJC mới nhất hôm nay 1/12/2023 (tính đến 9h30). Đơn vị: Ngàn đồng/lượng.

    LOẠI MUA VÀO BÁN RA
    TP.HCM
    Vàng SJC 1 – 10 lượng 72.400 73.600
    Vàng SJC 5 chỉ 72.400 73.620
    Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 72.400 73.630
    Vàng nhẫn SJC 9999 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 61.250 62.350
    Vàng nhẫn SJC 9999 0,5 chỉ 61.250 62.450
    Vàng nữ trang 99,99% (vàng 24K) 61.150 62.050
    Vàng nữ trang 99% (vàng 23,7K) 60.236 61.436
    Vàng nữ trang 75% (vàng 18K) 44.692 46.692
    Vàng nữ trang 58,3% (vàng 14K) 34.329 36.329
    Vàng nữ trang 41,7% (vàng 10K) 24.027 26.027
    HÀ NỘI
    Vàng SJC 72.400 73.620
    ĐÀ NẴNG
    Vàng SJC 72.400 73.620
    NHA TRANG
    Vàng SJC 72.400 73.620
    CÀ MAU
    Vàng SJC 72.400 73.620
    HUẾ
    Vàng SJC 72.370 73.620
    BIÊN HÒA
    Vàng SJC 72.400 73.600
    MIỀN TÂY
    Vàng SJC 72.400 73.600
    QUẢNG NGÃI
    Vàng SJC 72.400 73.600
    BẠC LIÊU
    Vàng SJC 72.400 73.620
    HẠ LONG
    Vàng SJC 72.380 73.620

    Bảng giá vàng 9999, 24K, 18K, 14K, 10K SJC hôm nay 1/12/2023 lúc 9h30

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Xuất khẩu thủy sản tiếp đà tăng trưởng dương trong tháng 11

    Xuất khẩu thủy sản đạt 840 triệu USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, VASEP cho rằng điều này vẫn chưa thể hiện xu hướng khả quan do không có sự đột phá về doanh số so với các tháng trước.

    Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản (VASEP) cho biết trong tháng 11, xuất khẩu thủy sản đạt 840 triệu USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu các mặt hàng chính đều tăng trưởng dương, tôm tăng 4%, cá ngừ tăng 26%, cá tra tăng 12%, mực, bạch tuộc tăng 3%, cá biển khác tăng 4%…

    Xuất khẩu thủy sản tiếp đà tăng trưởng dương trong tháng 11

     

    Tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt gần 8,3 tỷ USD, giảm 19% so với cùng kỳ năm ngoái.

    Xuất khẩu thủy sản tiếp đà tăng trưởng dương trong tháng 11

     

    Trong đó, xuất khẩu tôm ước đạt 3,15 tỷ USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm ngoái do nguồn cung thế giới dư thừa, giá bán hạ. Mặt hàng này chiếm khoảng 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.

    Xuất khẩu tôm sang hầu hết thị trường chính đều thấp hơn so với cùng kỳ, trừ một vài thị trường nhỏ như Hong Kong và Thụy sỹ tăng 5%, Đài Loan tăng 19%.

    “Trung Quốc nhiều khả năng sẽ duy trì xu hướng nhập khẩu mạnh trong quý cuối năm 2023 để bù đắp cho mùa tiêu dùng cao điểm tháng 12, tháng 1-2/2024.

    Trong khi đó, nhu cầu ở Mỹ cũng tăng, nhưng nguồn cung chủ yếu từ Mỹ Latinh do chi phí hậu cần thấp”, VASEP nhận định.

    Còn tại châu Âu, lạm phát đã giảm nhưng các thương nhân không muốn mua hàng cho dịp Giáng sinh do nhu cầu đối với các loài giáp xác, bao gồm cả tôm vẫn yếu.

    Nhu cầu tôm ở Đông Nam Á và Viễn Đông dự kiến ​​sẽ cải thiện vào cuối năm, đặc biệt là giai đoạn tháng 12/2023 đến tháng 2/2024. Giá tôm xuất khẩu sang khu vực này có thể tăng khi sản lượng thấp theo mùa.

    Xuất khẩu thủy sản tiếp đà tăng trưởng dương trong tháng 11

     

    Xuất khẩu cá tra trong 11 tháng đạt gần 1,7 tỷ USD, thấp hơn 26% so với cùng kỳ năm ngoái do giá xuất khẩu giảm ở các thị trường chính, nhất là Mỹ và Trung Quốc. Mặt hàng này chiếm khoảng 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.

    Tuy nhiên, xuất khẩu cá tra đang có tín hiệu khả quan hơn ở một số thị trường Trung Quốc, Mexico, Canada, Brazil, Anh…

    11 tháng năm 2023, xuất khẩu cá ngừ đạt khoảng 774 triệu USD, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022. So với các mặt hàng khác, cá ngừ có tín hiệu tích cực hơn.

    Xuất khẩu cá ngừ sang Mỹ vẫn giảm 35%, nhưng nhiều thị trường như EU, Thái Lan, Israel, Mexico, Nga, Hàn Quốc, Phillipin, Nhật Bản đang có xu hướng tăng nhập khẩu hàng Việt Nam.

    Ngoài ra, các loại cá khác cũng mang về doanh số 1,7 tỷ USD, giảm 7% so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu mực, bạch tuộc, nhuyễn thể có vỏ, cua ghẹ vẫn tăng trưởng âm từ 10-13% so với cùng kỳ năm ngoái.

    VASEP nhận định xuất khẩu các mặt hàng thủy sản chủ lực tăng trưởng dương trong tháng 11, tuy nhiên vẫn chưa thể hiện xu hướng khả quan do không có sự đột phá về doanh số so với các tháng trước.

    Xuất khẩu thủy sản năm 2023 ước đạt khoảng 9 tỷ USD, giảm 18% so với năm 2022. Trong đó, tôm sẽ thu về khoảng 3,4 tỷ USD, thấp hơn 21% so với năm ngoái; cá tra ước đạt 1,8 tỷ USD, giảm 25%; cá ngừ đạt 850 triệu USD, giảm 15%…

    Hoàng Anh

    Nguồn: VietNam Biz

  • Trồng rong nho trong bể chi phí thấp, lợi nhuận cao

    Rong nho biển có giá trị kinh tế cao, có thể nuôi trong bể xi măng với chi phí đầu tư thấp, có khả năng nhân rộng, tạo kế sinh nhai cho người dân.

    Trồng rong nho trong bể chi phí thấp, lợi nhuận cao

    Rong nho biển có giá trị kinh tế cao, đang được trồng khá phổ biến ở Việt Nam. Ảnh: Anh Duy.

    Rong nho biển đang được trồng ở Việt Nam hiện nay có nguồn gốc từ Nhật Bản và nhập nội vào năm 2004 và hiện nay, nghề trồng rong nho biển đang phát triển rộng rãi tại tại một số tỉnh do chúng có tốc độ tăng trưởng cao, điều kiện môi trường sống phù hợp và có giá trị xuất khẩu lớn.

    Do đó cần nhân rộng và phát triển nghề trồng rong nho biển ra khắp cả nước, đặc biệt là những vùng kinh tế khó khăn nhưng có điều kiện địa lý, môi trường phù hợp với điều kiện trồng và phát triển của loài rong này.

    Từ nhu cầu thực tiễn này, nhóm nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản đã nghiên cứu trồng rong nho trong bể để đưa loài rong này phát triển phổ biến, giúp tăng thu nhập cho người dân.

    Theo Tiến sĩ Đỗ Anh Duy (Viện Nghiên cứu Hải sản), quá trình nghiên cứu cho thấy, rong nho biển có thể nuôi trồng trực tiếp trên nền đáy cát bùn hoặc treo trong các túi lưới hoặc vỉ lưới ở các loại thủy vực như ao, đìa, đầm, ven biển và trong bể.

    Trồng rong nho trong bể chi phí thấp, lợi nhuận cao

    Tiến sĩ Đỗ Anh Duy và thành quả nghiên cứu. Ảnh: Minh Tuấn.

    Với đặc tính sinh thái như vậy mà hiện nay ở nước ta, hai mô hình trồng khá phổ biến là trồng rong nho biển trong bể xi măng và trồng rong ngoài tự nhiên trong các ao, đìa, đầm ven biển.

    Mô hình trồng rong nho biển ngoài tự nhiên rất phù hợp với các vùng biển ven bờ ít sóng gió và các vịnh kín ven các đảo xa bờ, các ao, đìa, đầm, ven biển. Mặt khác cũng khá phù hợp với các vùng ven biển, các đảo nhỏ, các đảo tiền tiêu xa bờ khi mà điều kiện tự nhiên ít thuận lợi như: sóng lớn, gió bão, ít vịnh kín,…

    Để trồng rong nho biển trong bể xi măng, người dân cần xây bể tại khu vực gần bờ biển để thuận tiện cho việc bơm cấp và thay nước biển, trên vùng đất tránh được ngập lụt hoặc thủy triều lớn hàng năm.

    Nguồn nước biển lấy vào phải đảm bảo có độ mặn cao và ổn định, tốt nhất là 30 – 34‰. Đặc biệt phải tránh xa nguồn nước ngọt trực tiếp đổ ra, nước không bị ô nhiễm từ đất liền, nông nghiệp và khu công nghiệp.

    Vị trí xây dựng bể tốt nhất có nguồn điện lưới quốc gia để sục khí trong quá trình trồng, thuận tiện về giao thông đi lại, thuận tiện trong quá trình quản lý, chăm sóc và thương mại rong nho.

    Trồng rong nho trong bể chi phí thấp, lợi nhuận cao

    Bể xi măng để nuôi rong nho biển. Ảnh: Anh Duy.

    Nơi lấy nước phục vụ trồng rong nho phải ở độ sâu 0,5 m dưới mặt nước biển tại thời điểm nước ròng thấp nhất và phải cao hơn đáy biển 1m. Điểm tiếp nhận nước biển được giữ yên tĩnh tại vị trí cố định và được bao che bởi lưới lọc kim loại để ngăn ngừa các động vật, các vật thể khác xâm nhập. Nước trước khi đưa vào bể trồng rong được lọc kỹ để loại bỏ vật thải, rác bằng túi lưới lọc tảo.

    Bên cạnh đó, rong nho giống phải khỏe mạnh, có màu xanh lục đậm và sáng bóng, không dập nát, các quả cầu mọc dày và đều đặn xung quanh trục, không đứt quãng, không có rong tạp và không có sinh vật sống bám trên rong.

    Sau khi thả giống, khoảng 45-60 ngày nuôi trồng, rong nho biển phát triển phủ đầy trên nền đáy bể và đạt sinh khối từ 4 – 5 kg tươi/m2, có thể tiến hành thu hoạch lần đầu phần thân đứng > 5 cm để sử dụng

    Nếu được chăm sóc tốt, bể nuôi trồng rong nho chỉ cấy giống 1 lần và cho thu hoạch liên tục quanh năm. Sau thời gian 10 – 12 tháng tiến hành thu hoạch toàn bộ, vệ sinh, cải tạo, sửa chữa bể và trồng mới.

    Trồng rong nho trong bể chi phí thấp, lợi nhuận cao

    Thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học Viện nghiên cứu Hải sản. Ảnh: Anh Duy.

    Tiến sĩ Đỗ Anh Duy khẳng định, trồng rong nho trong bể xi măng có nhiều lợi thế do chi phí đầu tư ban đầu thấp nếu thiết kế hệ thống bể nuôi đơn giản. Người dân có thể sử dụng hệ thống các bể nuôi xếp gạch, lót bạt hay bể composite để nuôi.

    Bên cạnh đó, việc nuôi rong nho trong bể có nhiều thuận lợi về chăm sóc, quản lý, thu hoạch, kiểm soát tốt dịch bệnh, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không bị ảnh hưởng bởi sóng, gió như khi nuôi ngoài biển, vùng ven biển, vũng vịnh.

    Rong nho là nguồn thực phẩm có giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao do trong rong chứa rất nhiều các vitamin A, B, C và các nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho cơ thể như sắt, iod, calcium,… Vì vậy nhu cầu về thị trường là rất lớn, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, phát triển kinh tế hộ gia đình. Kỹ thuật nuôi đơn giản, sau khi được đào tạo, tập huấn kỹ thuật, người dân có thể tự làm được ngay.

    Nuôi trồng rong nho có tiềm năng rất lớn đối với các đảo, quần đảo xa bờ ở biển Việt Nam khi mà điều kiện về môi trường, tự nhiên thuận lợi cho phát triển nuôi trồng đối tượng này.

    Bên cạnh đó, nguồn rau xanh trên đảo không nhiều, du khách đến với đảo ngày càng đông, về tương lai, đây cũng có thể là nguồn thực phẩm chủ yếu thay thế nguồn rau xanh trên các đảo, quần đảo này.

    “Với tiềm năng và nhu cầu thị trường lớn, giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao, rong sinh trưởng phát triển nhanh, trong vòng 30 – 40 ngày nuôi trồng có thể cho thu hoạch, chi phí đầu tư thấp sẽ rất phù hợp với điều kiện kinh tế hộ gia đình. Vì vậy, mô hình nuôi trồng rong nho trong bể có khả năng nhân rộng, phát triển cao tại Việt Nam”, Tiến sĩ Đỗ Anh Duy chia sẻ.

    Rong nho biển có tên khoa học là Caulerpa lentillifera J.Agardh, là loài thuộc họ rong cầu lục Caulerpaceae, ngành rong lục Chlorophyta. Rong nho biển được sử dụng làm nguồn thực phẩm giá trị và rất được ưa chuộng do trong rong nho biển có chứa rất nhiều các vitamin A, B, C và các nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho cơ thể động vật như sắt, iod, calcium,… Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Hải sản đã giúp người dân biết cách trồng loài rong nho biển trong bể xi măng, có thể được áp dụng vào thực tiễn đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Phòng bệnh heo tai xanh

    Hoài Ân là huyện có đàn heo lớn nhất Bình Định với khoảng 250.000 con, địa phương này thường xuyên đẩy mạnh tiêm phòng vacxin phòng bệnh heo tai xanh để bảo vệ đàn heo.

    Phòng bệnh heo tai xanh

    Hoài Ân chủ động thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch bệnh động vật nguy hiểm, giảm số ổ dịch, giảm thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi. Ảnh: V.Đ.T.

    Theo ông Nguyễn Xuân Phong, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện Hoài Ân, việc tiêm vacxin phòng bệnh heo tai xanh trên đàn heo ở địa phương này được huyện ban hành kế hoạch cụ thể hàng năm. Nguồn vacxin được tỉnh Bình Định hỗ trợ 100%.

    Để công tác tiêm vacxin đảm bảo tiến độ, UBND các xã, thị trấn lập kế hoạch tiêm phòng thuộc địa bàn quản lý; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người chăn nuôi hợp tác với thú y, chính quyền địa phương trong công tác tiêm phòng, phát hiện và báo cáo dịch bệnh; tuyệt đối không được giấu dịch, tự điều trị, làm lây lan dịch bệnh; giao trách nhiệm cho thú y cơ sở tiếp nhận vacxin và tổ chức tiêm phòng tại địa phương đảm bảo đúng quy định; tổ chức giám sát và xử lý kịp thời những rủi ro trong tiêm phòng.

    Việc triển khai kế hoạch tiêm phòng vacxin phòng bệnh tai xanh trên đàn heo nhằm chủ động thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch bệnh động vật nguy hiểm, giảm số ổ dịch, giảm thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi. Đồng thời tạo điều kiện để người chăn nuôi an tâm phát triển đàn heo, tạo vùng nguyên liệu cung cấp thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Giá cà phê hôm nay 1/12/2023: Thị trường tăng nóng

    Giá cà phê hôm nay 1/12/2023 ở trong nước và thế giới tăng mạnh. Trong đó, thị trường nội địa tăng 900 đồng, lên giá 58.600 – 59.700 đ/kg.

    Giá cà phê hôm nay 1/12/2023: Thị trường tăng nóng

    Cập nhật giá cà phê trong nước và thế giới mới nhất ngày 1/12/2023

    Giá cà phê hôm nay 1/12 trên thế giới

    Trên thế giới, sàn London và New York ngày 1/12 đồng loạt tăng nóng.

    Trong đó, giá Robusta trên sàn London giao tháng 1/2024 tăng tới 88 USD; lên mức 2.611 USD/tấn. Và kỳ hạn giao tháng 3/2024 trên sàn này tăng mạnh 78 USD; ở mức 2.546 USD/tấn.

    Còn trên sàn New York, giá Arabica giao tháng 3/2024 tăng nóng 12 cent; lên mức 184,70 cent/lb. Và kỳ hạn giao tháng 5/2024 tăng tới 10,7 cent; ở mức 180,75 cent/lb.

    Giá cà phê hôm nay 1/12/2023: Thị trường tăng nóng

    Giá Arabica và Robusta mới nhất ngày 1/12/2023

    Giá cà phê thế giới hôm nay đồng loạt tăng mạnh khi dòng vốn từ vàng và dầu thô sang cà phê. Tồn kho 2 sàn đồng loạt giảm đã kích thích đầu cơ mua thêm các hợp đồng khống.

    Bên cạnh đó, đồng USD thấp do kỳ vọng ngày càng tăng rằng Fed sẽ cắt giảm lãi suất trong nửa đầu năm 2024 giúp cà phê hưởng lợi.

    Tính đến thời điểm khảo sát, chỉ số DXY đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) giảm về mức 103,27.

    Thị trường vẫn đang theo dõi chặt chẽ dự báo thời tiết mưa ở miền nam Brazil và dự báo về hiện tượng thời tiết El Nino sẽ gây khô hạn vào cuối năm nay. Trong khi thu hoạch vụ mùa mới của Việt Nam tiếp tục gây sức ép lên giá cà phê kỳ hạn.

    Nhiều thương nhân quốc tế đề nghị những đơn hàng lớn với các nhà xuất khẩu Việt Nam về hàng Robusta vụ mới, với mức cộng 150 USD/tấn. Theo các nhà kinh doanh cà phê Đông Nam Á, dòng vốn đầu cơ tại thị trường này đang chảy mạnh vào mặt hàng cà phê vụ mới nên không dễ gì có được lượng hàng lớn vào lúc này.

    Tổng kết tháng 11/2023, thị trường thế giới tăng mạnh. Trong đó, giá Robusta tại London giao tháng 1/2024 tăng tới nóng 244 USD/tấn, còn giá Arabica giao tháng 3/2024 tăng tới 19,9 cent/lb.

    Như vậy, giá cà phê thế giới ngày 1/12/2023 tăng mạnh so với hôm qua.

    Giá cà phê hôm nay 1/12 ở trong nước

    Thị trường trong nước ngày 1/12 tăng mạnh so với hôm qua.

    Cụ thể, tại tỉnh Lâm Đồng, 3 huyện Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà đang giao dịch cùng mức 58.600 đ/kg.

    Tại Đắk Lắk, huyện Cư M’gar hôm nay đang thu mua ở mức 59.700 đ/kg. Còn huyện Ea H’leo và Buôn Hồ lại đang giao dịch ở mức giá 59.600 đ/kg.

    Ở tỉnh Đắk Nông, thương lái Gia Nghĩa và Đắk R’lấp đang lần lượt giao dịch ở mức 59.500 và 59.400 đ/kg.

    Tại tỉnh Gia Lai, huyện Chư Prông đang giao dịch với giá 59.400 đ/kg, còn Pleiku và La Grai đang cùng giữ mức 59.500 đ/kg.

    Còn giá thu mua tại Kon Tum hôm nay đang là 59.400 đ/kg.

    Tỉnh thành Địa phương Giá cả Tăng/giảm
    Lâm Đồng Di Linh 58.600 800
    Lâm Hà 58.600 800
    Bảo Lộc 58.600 800
    Đắk Lắk Cư M’gar 59.700 800
    Ea H’leo 59.600 800
    Buôn Hồ 59.600 800
    Đắk Nông Gia Nghĩa 59.500 700
    Đắk R’lấp 59.400 700
    Gia Lai Chư Prông 59.400 700
    Pleiku 59.500 900
    La Grai 59.500 900
    Kon Tum   59.400 700

    Giá cà phê trong nước hôm nay tăng tới 900 đ/kg, qua đó đưa mặt hàng nông sản này áp sát ngưỡng 60.000 đ/kg.

    Tổng kết tháng 11/2023, thị trường nội địa cơ bản giữ ổn định trong bối cảnh vụ thu hoạch bắt đầu diễn ra tại các địa phương.

    Như vậy, giá cà phê trong nước ngày 1/12/2023 đang giao dịch quanh ngưỡng 58.600 – 59.700 đ/kg đ/kg.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Hồng không hạt LT-1, cây ‘hái ra tiền’ ở vùng cao Bắc Kạn

    BẮC KẠN Trồng 900 gốc (2ha) hồng không hạt TL-1, ngay vụ đầu bà Hạnh đã thu được tới hơn 1.300kg quả, bán sỉ tại vườn 20.000 đồng/kg, doanh thu đạt gần 260 triệu đồng.

    Men theo con đường dốc quanh co khúc khuỷu mới đến được nhà bà Trần Thị Hạnh ở bản Phiêng Cuôn, xã Sơn Thanh (Na Rì, Bắc Kạn). Bà Hạnh đang vớt, rửa nốt những trái hồng tận thu cuối vụ. Vừa làm, bà vừa kể: Năm 2019, bà Hạnh mạnh dạn đưa vào trồng 900 gốc hồng không hạt LT-1, sau trồng 2 năm nhiều cây đã cho quả bói, nhưng bà Hạnh ngắt bỏ toàn bộ, đợi tới năm nay bà mới bắt đầu để quả cho thu hoạch.

    Hồng không hạt LT-1, cây 'hái ra tiền' ở vùng cao Bắc Kạn

    Ông Nông Văn học, Phó Bí thư Huyện ủy Na Rì thăm mô hình trồng hồng LT-1. Ảnh: Hải Tiến.

    Vụ đầu cho thu hoạch, 900 gốc (2ha) hồng không hạt LT-1 bà Hanh thu được tới hơn 1.300kg quả, bán sỉ tại vườn 20.000 đồng/kg, doanh thu đạt gần 260 triệu đồng, tương đương giá trị thu hoạch 130 triệu đồng/ha canh tác/năm.

    Bà Hạnh kể, trồng và chăm sóc cây hồng không hạt LT-1 khá dễ, chỉ cần làm theo quy trình kỹ thuật của Viện Nghiên cứu Rau quả (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), đào hố sâu 50cm, rộng 40cm, bón lót mỗi hố 30kg phân chuồng ủ hoai mục, 0,5kg lân supe, 0,2kg ure, 0,3kg kali và 0,3 vôi bột, rồi phủ đất kín phân, đặt bầu cây giống giữa hố, sao cho cổ của gốc cây ngang bằng mặt ruộng, lấp đầy đất, nén nhẹ, tưới nước và dùng cỏ khô hoặc rơm rạ tủ gốc.

    Về chăm bón, 3 năm đầu chưa lấy quả, mỗi năm bón mỗi gốc 0,2 – 0,3kg ure + 0,5 – 0,8kg lân supe + 0,2 – 0,3kg kali + 20 – 30kg phân chuồng ủ mục.

    Từ khi khai thác quả kinh doanh (năm thứ 4), tùy theo thực tế sinh trưởng của từng cây, bón tăng mỗi loại phân hóa học từ 0,1 – 0,2kg/gốc + 30 – 50kg phân chuồng ủ mục hoặc 2 – 3kg phân vi sinh. Chia phân bón làm 3 lần: Lần 1 (tháng 1 – 2) bón 100% phân chuồng + 100% phân lân + 60% lượng đạm ure + 50% lương kali; lần 2 (tháng 4 – 5) bón 20% lượng đạm ure + 25% kali; lần 3 (tháng 10 – 11) bón nốt số phân còn lại.

    Cách bón, đào rãnh theo hình chiếu mép tán cây, sâu 20cm, rộng 20cm, rải đều phân xuống rãnh, lấp kín đất và tủ gốc bằng cỏ khô hoặc rơm rạ giúp giữ ẩm đất, giảm công tưới để cây trồng phát triển thuận lợi.

    Hồng không hạt LT-1, cây 'hái ra tiền' ở vùng cao Bắc Kạn

    Hồng LT-1 cho quả rất to và ngon. Ảnh: Hải Tiến.

    Cắt tỉa kịp thời các cành khô, cành tăm, cành cong, cành mọc thẳng đứng, cành mọc quá dày trong tán, cành bị sâu bệnh và những quả sâu, vẹo, quả quá dày trong chùm. Hết vụ thu hoạch phải tiến hành vệ sinh vườn cây, cắt bỏ 1/3 những cành mới mang quả trong năm, cho bật mầm phát sinh cành mới. Sau đó dùng nước vôi quét xung quanh thân gốc cây và thu gom mọi tàn dư thực vật trong vườn, chôn lấp sâu hoặc xử lý bằng chế phẩm vi sinh dùng làm phân bón. 

    Lưu ý, định kỳ 3 năm đốn tỉa nhẹ (đón phớt) phải có 1 năm đốn tỉa sâu (đốn đau) nhằm tạo cho tán cây phát triển cân đối, phù hợp với sự phát triển bộ bộ rễ và khống chế chiều cao cây không vươn quá khả năng thu hái quả. Cây hồng trồng trong 2 năm đầu sinh trưởng rất chậm, từ năm thứ 3 trở đi sẽ sinh trưởng, phát triển nhanh.

    Sâu bệnh hại chủ yếu ở thời kỳ cây nhú chồi đến trước lúc ra hoa. Cần ưu tiên sử dụng thuốc BVTV sinh học như dầu khoáng hoặc thuốc có tính lưu dẫn cao. Khi sâu bệnh xuất hiện mật độ cao mới dùng thuốc hóa học độ độc nhẹ (vỏ gói có vạch vàng) để phun trừ. Một số đối tượng dịch hại chính trên cây hồng như rệp sáp phát sinh gây hại nặng ở thời kỳ cây ra lộc (tháng 2 – 3) có thể dùng máy bơm cao áp phụt mạnh vào những chỗ rệp đang đeo bám cho trôi xuống, nếu nhiều rệp cần phun trừ bằng thuốc Boxing 485EC hoặc Confidor 400 WG, Confidor 100SL.

    Hồng không hạt LT-1, cây 'hái ra tiền' ở vùng cao Bắc Kạn

    Mô hình trồng hồng LT-1 của bà Hạnh được rất nhiều người đến tham quan học hỏi. Ảnh: Hải Tiến.

    Sâu ăn lá phát sinh gây hại quanh năm, không phòng trừ sâu sẽ ăn trụi lá hồng, mật độ sâu hại thấp nên giết bằng tay, khi sâu hại quá nhiều hãy dùng thuốc Trebon 10EC hoặc Sherpa 25EC. Đối với sâu đục quả, cần thăm vườn thường xuyên, kiểm tra thấy có nhiều trứng sâu ở cuống hoặc tai quả thì dùng thuốc Sherpa 25EC hoặc Fastac 5EC phun trừ ngay.

    Bệnh thán thư thường phát sinh gây hại nặng khi thời tiết ẩm ướt, nhiệt độ không khí cao từ 22 – 25 độ C, dùng thuốc Dacolin 500SC, Aliette 800WG hoặc Ridomil Gold 68 WG. Bệnh giác ban xuất hiện chủ yếu trong mùa mưa (tháng 7 – 9), gây hại trên lá và tai quả, làm quả bị héo rụng, phun trừ bằng Boocdo 1% hoặc Kasuran 1%.

    Thu hoạch khi quả hồng chuyển từ màu xanh sang hanh vàng, nhưng vỏ quả vẫn còn cứng, rồi nhặt bỏ những trái cây bị sâu bệnh, sau đưa toàn bộ vào ngâm ngập trong thùng nước sạch từ 72 – 96h (tùy theo thời tiết nắng nóng hay se lạnh). Trong đó, 1-2 ngày phải thay mới nước ngâm hồng để khử hết độ chát. Nếu vận chuyển hồng không hạt đi xa, có thể xuất quả vừa mới thu hái để thương lái tự khử chát theo cách làm nêu trên, giảm thiểu được ảnh hưởng chất lượng quả.

    Hồng không hạt LT-1, cây 'hái ra tiền' ở vùng cao Bắc Kạn

    Bà Hạnh đang vớt rửa những trái hồng LT-1 sau ngâm khử chát. Ảnh: Hải Tiến.

    Trở lại chuyện vì sao mạnh dạn trồng được vườn hồn, bà Hạnh cho biết, khi cán bộ chuyên môn của huyện xuống tập huấn kỹ thuật và triển khai trồng hồng LT-1, có một số hộ trong bản ngần ngại bởi ở thời kỳ kiến thiết cơ bản 3 năm đầu, cây chưa cho thu hoạch sẽ làm gì để lấy cái ăn, cái mặc. Riêng bà Hanh vẫn quyết tâm chuyển đổi toàn bộ diện tích cây trồng hiệu quả kinh tế thấp trên các vườn đồi sang trồng hồng không hạt LT-1 xen canh cây lạc và đỗ tương, kết hợp nuôi thêm hơn 100 con gà và 5 con bò thịt. Nhờ những nguồn thu này, bà Hạnh đã vượt qua giai đoạn “giáp hạt” để có vườn hồng bội thu như bây giờ.

    Biết bà Hạnh trồng hồng không hạt LT-1 đạt hiệu quả tốt, từ 2 năm nay, nhiều nhà nông trong huyện đã và đang mở rộng diện tích trồng giống hồng không hạt này.

    Ở nước ta, chỉ một số tiểu vùng cao khu vực phía Bắc có điệu kiện sinh thái tương tự như Bắc Kạn mới có thể trồng được hồng không hạt nói chung, hồng LT-1 nói riêng. Hồng không hạt ít bị sâu bệnh hại, dễ thâm canh đạt năng suất cao, rất phù hợp với khả năng canh tác, mở rộng sản suất của bà con các dân tộc miền núi. Mô hình trồng hồng không hạt LT-1 của bà Hạnh và các hộ dân trên địa bàn xã Sơn Thanh (Na Rì, Bắc Kạn) là minh chứng rõ nét nhất. 

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam