Home Blog

Giá heo hơi hôm nay 6/10/2023: Giảm tới 2.000 đ/kg

0

Giá heo hơi hôm nay tiếp tục giảm thêm 1.000 – 2.000 đ/kg. Hiện thị trường ba miền đang giao dịch quanh mức 50.000 – 55.000 đ/kg.

Giá heo hơi hôm nay 6/10/2023: Giảm tới 2.000 đ/kg

Cập nhật giá heo hơi ba miền mới nhất ngày hôm nay 6/10/2023

Giá heo hơi hôm nay 6/10 tại miền Bắc

Thị trường heo hơi miền Bắc giảm nhẹ 1 giá so với hôm qua.

Trong đó, hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai cùng giao dịch về mốc 53.000 đ/kg, sau khi giảm 1.000 đ/kg.

Cùng mức giảm trên, các địa phương gồm Bắc Giang, Thái Bình và Hà Nội thu mua giá heo về chung mức 54.000 đ/kg.

Các địa phương còn lại đi ngang.

Tỉnh/Thành Giá cả Tăng/Giảm
Bắc Giang 54.000 -1.000
Yên Bái 53.000 -1.000
Lào Cai 53.000 -1.000
Hưng Yên 55.000
Nam Định 54.000
Thái Nguyên 54.000
Phú Thọ 54.000
Thái Bình 54.000 -1.000
Hà Nam 54.000
Vĩnh Phúc 54.000
Hà Nội 54.000 -1.000
Ninh Bình 54.000
Tuyên Quang 54.000

Như vậy, giá lợn hơi miền Bắc ngày 6/10/2023 đang giao dịch ở mức 53.000 – 54.000 đ/kg.

Giá heo hơi hôm nay 6/10 tại miền Trung

Thị trường heo hơi miền Trung và Tây Nguyên giảm thêm 1.000 đ/kg so với hôm qua.

Cụ thể, đồng loạt các địa phương gồm Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa và Ninh Thuận cùng giữ ở mức 53.000 đ/kg, sau khi giảm nhẹ 1 giá.

Các địa phương còn lại không thay đổi về giá so với hôm qua.

Tỉnh/Thành Giá cả Tăng/Giảm
Thanh Hóa 53.000 -1.000
Nghệ An 53.000 -1.000
Hà Tĩnh 53.000 -1.000
Quảng Bình 54.000
Quảng Trị 54.000
Thừa Thiên Huế 53.000 -1.000
Quảng Nam 53.000 -1.000
Quảng Ngãi 54.000
Bình Định 54.000
Khánh Hoà 53.000 -1.000
Lâm Đồng 54.000
Đắk Lắk 52.000
Ninh Thuận 53.000 -1.000
Bình Thuận 54.000

Như vậy, giá lợn hơi miền Trung và Tây Nguyên ngày 6/10/2023 thu mua quanh mức 52.000 – 54.000 đ/kg.

Giá heo hơi hôm nay 6/10 ở miền Nam

Thị trường heo hơi miền Nam giảm tới 2.000 đ/kg so với hôm qua.

Theo đó, 54.000 đ/kg là mức giá heo tại Cà Mau, sau khi giảm 1.000 đ/kg.

Sau khi giảm 2.000 đ/kg, hai tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ lần lượt thu mua về mức 52.000 và 53.000 đ/kg.

Các tỉnh thành khác duy trì mức giá ngày hôm qua.

Tỉnh/Thành Giá cả Tăng/Giảm
Bình Phước 53.000
Đồng Nai 54.000
TP HCM 53.000
Bình Dương 53.000
Tây Ninh 53.000
Vũng Tàu 54.000
Long An 54.000
Đồng Tháp 54.000
An Giang 53.000
Vĩnh Long 52.000 -2.000
Cần Thơ 53.000 -2.000
Kiên Giang 52.000
Hậu Giang 53.000
Cà Mau 54.000 -1.000
Tiền Giang 54.000
Bạc Liêu 52.000
Trà Vinh 53.000
Bến Tre 50.000
Sóc Trăng 52.000

Như vậy, giá lợn hơi miền Nam ngày 6/10/2023 đang giao dịch trong khoảng 50.000 – 55.000 đ/kg.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Đồng Nai cứng rắn với vấn đề môi trường trong chăn nuôi

0

Đó là ý kiến chỉ đạo của Phó Chủ tịch UBND Đồng Nai về công tác kiểm tra, đánh giá các cơ sở chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh.

Đồng Nai cứng rắn với vấn đề môi trường trong chăn nuôi

Môi trường Đồng Nai đang bị đe dọa do nhiều cơ sở chăn nuôi không đảm bảo yêu cầu về xử lý chất thải hoặc xả thải trực tiếp ra môi trường. Ảnh: Lê Bình.

Sáng 6/10, UBND tỉnh Đồng Nai đã tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá kết quả thực hiện về việc triển khai tổng kiểm tra các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Phi chủ trì hội nghị.

Một lần nữa, Đồng Nai thể hiện quan điểm cứng rắn không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Ngành chăn nuôi Đồng Nai phải phát triển đồng bộ và gắn với môi trường xanh.

Môi trường đang bị bức hại do chăn nuôi

Đồng Nai là thủ phủ chăn nuôi của cả nước với 1.457 cơ sở chăn nuôi tập trung và gần 22.300 cơ sở chăn nuôi nông hộ với hai vật nuôi chủ lực là heo và gà. Tổng đàn heo là khoảng 2,5 triệu con và 26 triệu con gà.

Ngành chăn nuôi nói riêng đang đóng góp lớn vào phát triển kinh tế chung của Đồng Nai. Tuy nhiên, lĩnh vực này cũng tồn tại nhiều bất cập, hạn chế cần phải giải quyết.

Trong đó, có cả những hộ chăn nuôi nằm giữa khu dân cư đang có hiện tượng gây ô nhiễm nước mặt nước, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.

Thông qua đường dây nóng của UBND tỉnh, số lượng tiếp nhận đơn thư phản ánh khiếu nại tố cáo việc ô nhiễm môi trường chăn nuôi gia súc, gia cầm gia tăng trong thời gian qua.

Ông Võ Văn Phi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, đi tới đâu thì vấn đề được người dân phản ánh nhiều nhất là môi trường đang bị bức tử do chăn nuôi.

Mùi hôi thối từ chăn nuôi không chỉ tấn công không gian sống mà nước thải chăn nuôi còn tràn ra sông, suối, ao hồ…

Thậm chí, nước thải chưa được xử lý còn ngấm vào lòng đất, ảnh hưởng đến mạch nước ngầm tại nhiều khi vực.

Đồng Nai cứng rắn với vấn đề môi trường trong chăn nuôi

Ông Võ Văn Phi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai phát biểu khai mạc hội nghị tổng kết kiểm tra các cơ sở chăn nuôi. Ảnh: Lê Bình.

Do đó, từ ngày 13/4/2023, UBND Đồng Nai đã ban hành kế hoạch để kiểm tra các cơ sở chăn nuôi nhằm đảm bảo môi trường. “Chủ trương nhất quán của Đồng Nai là sẽ không phải phát triển kinh tế mà đánh đổi môi trường. Cần uốn nắn các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào nề nếp để đời sống bà con được nâng lên”, ông Võ Văn Phi bày tỏ.

Trong 5 tháng kiểm tra các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn, Đồng Nai tổ chức nhiều đoàn kiểm tra với 2 cấp: tỉnh và huyện. Với đoàn kiểm tra cấp tỉnh sẽ do các Sở, ngành và công an tỉnh Đồng Nai thực hiện. Tại huyện sẽ do UBND huyện và các phòng, ban thực hiện.

“Kết quả, các đoàn đã triển khai kiểm tra hơn 9.000 trang trại chăn nuôi trên toàn tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị các địa phương khẩn trương kiểm tra, có giải pháp xử lý đối với các cơ sở vi phạm. Các cơ quan thẩm quyền đã ban hành quyết định xử phạt 164 cơ sở, tổng số tiền phạt là hơn 6,1 tỷ đồng, kèm theo đình chỉ 14 cơ sở có thời hạn”, ông Trần Trọng Toàn, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Đồng Nai báo cáo.

Đồng thời, có 328 cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đang nuôi gia công cho các công ty chăn nuôi lớn. Các trang trại nằm hầu hết tại TP Long Khánh và các huyện, trừ TP Biên Hòa.

Sở Tài nguyên và Môi trường Đồng Nai cũng đề nghị UBND các huyện và TP Long Khánh khẩn trương kiểm tra, có giải pháp xử lý đối với các cơ sở chăn nuôi nêu trên mà không có thủ tục môi trường. Đến hiện tại, các chỉ số về môi trường tại các cơ sở đang có sự cải thiện rõ rệt.

Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế

Ông Võ Văn Phi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai chia sẻ, việc Đồng Nai triển khai mạnh mẽ kiểm tra môi trường đã tạo ra cú sốc với người chăn nuôi, doanh nghiệp. Điều này một phần là từ trước nay do các cơ quan quản lý có phần buông lỏng.

“Thời gian qua, Đồng Nai chưa thực hiện chặt về môi trường nên xảy ra tình trạng sốc này. Thế nhưng từ nay trở về sau, việc quản lý chặt này sẽ được thực hiện đồng bộ hơn, quyết liệt hơn. Các cơ sở chăn nuôi và doanh nghiệp phải phối hợp với UBND tỉnh, phải thích nghi với những cú sốc này để mọi công tác được uốn nắn”, ông Võ Văn Phi bày tỏ.

Đồng Nai cứng rắn với vấn đề môi trường trong chăn nuôi

Nhiều hộ chăn nuôi Đồng Nai đang đầu tư hệ thống máy ép phân thô và xử lý chất thải theo quy chuẩn mới nhất. Ảnh: Lê Bình.

Đồng Nai là địa phương đang thực hiện quyết liệt mục tiêu nông thôn mới nâng cao nên việc bảo vệ môi trường là tiêu chí quan trọng để đạt được mục tiêu trọng tâm của tỉnh. Đồng thời, Đồng Nai định hướng sẽ phát triển du lịch nông thôn và thu hút kinh tế toàn diện nên không để môi trường ô nhiễm là trở ngại để phát triển kinh tế tổng hòa.

Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển môi trường, đảm bảo không gian sống cho tất cả mọi người. Môi trường có ổn định, trong lành thì mới thu hút đầu tư, phát triển. Đây là bài học mà các nước phát triển đã chứng minh.

Hiện, mật độ chăn nuôi quá lớn, với 2,5 triệu con heo và 26 triệu con gà. Trong khi đó, dân số Đồng Nai là 3,2 triệu người. “Như vậy chúng ta đang sống giữa đàn heo gà còn gì nữa?! Đúng ra chúng ta cần phải tính đến bài toán này từ lâu rồi chứ bây giờ không phải đi giải quyết hậu quả. Hệ lụy từ chất thải chăn nuôi không kiểm soát thì rất kinh khủng. Doanh nghiệp chăn nuôi phải thích ứng để phát triển, nếu không cần phải chọn lựa lại hướng đi”, ông Phi nhấn mạnh.

Theo Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Đồng Nai, các cơ sở có quy mô lớn đều có tìm hiểu, đáp ứng và đầu tư công nghệ ngay từ đầu. Tuy nhiên, đối với những cơ sở có quy mô vừa và nhỏ thì do vấn đề đầu tư trước đây chưa được đồng bộ, không còn phù hợp với những tiêu chuẩn hiện hành về đảm bảo môi trường.

Đồng Nai cứng rắn với vấn đề môi trường trong chăn nuôi

Ông Trần Trọng Toàn, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Đồng Nai: “Các cơ sở chăn nuôi phải đầu tư và hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải mới được phép chăn nuôi trở lại”. Ảnh: Lê Bình.

“Một phần nguyên nhân là do hệ quả từ lịch sử chăn nuôi từ trước. Các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ liên tục mở rộng diện tích chăn nuôi và cũng xử lý hệ thống nước thải theo dạng tự phát, bất khoa học. Tuy nhiên, để tiếp tục chăn nuôi thì các chủ cơ sở buộc phải đầu tư công nghệ, quy trình xử lý nước thải theo đúng quy định hiện hành”, ông Trần Trọng Toàn nêu.

Để hiện thực hóa quy định này, Đồng Nai có hàng trăm cơ sở đang bị tạm đình chỉ chăn nuôi để xây dựng các hệ thống xử lý nước thải, đảm bảo tiêu chí bảo vệ môi trường.

Đừng để người dân đứng giữa ngã ba đường

Long Thành và Thống Nhất là hai thủ phủ chăn nuôi của tỉnh Đồng Nai. Tại hai địa phương này có một số trang trại trước đây nằm trong quy hoạch chăn nuôi nhưng hiện nay không còn nằm trong quy hoạch chăn nuôi. Nhiều hộ đã bị yêu cầu tạm ngưng kinh doanh để đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải.

Theo quy định, quy trình xử lý nước thải sẽ bao gồm: Chất thải được hệ thống máy móc ép thô, tách chất thải rắn để ủ hoặc bán cho những công ty phân bón. Đối với nước thải sẽ được xử lý qua hệ thống hồ lắng biogas, sau đó tiếp tục sẽ được xử lý qua bể xử lý sinh khí. Đến đây, nước thải mới có thể được sử dụng cho mục đích khác, như tưới cho cây trồng.

Đồng Nai cứng rắn với vấn đề môi trường trong chăn nuôi

Hiện, có đến hàng trăm trang trại tại Đồng Nai đang bỏ trống chuồng do vướng quy định về đảm bảo môi trường, có nguy cơ không kịp tái đàn cho dịp Tết Nguyên đán. Ảnh: Lê Bình.

Tuy nhiên, người nông dân cũng đang “kêu trời” bởi quy định này. Bởi, họ vừa phải đầu tư số tiền lớn cho hệ thống xử lý này, lại buộc phải ngưng chăn nuôi trong thời gian dài. Hầu hết số vốn họ đầu tư đến từ vay ngăn hàng nhưng nếu không được chăn nuôi thì lãi mẹ đẻ lãi con, không có tiền chi trả.

“Tôi đã phải ngưng chăn nuôi suốt gần 5 tháng nay và đầu tư hơn 1 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý nước thải theo yêu cầu. Tuy nhiên, cũng chưa biết khi nào mới có thể chăn nuôi trở lại. Chủ trương mình đã chấp hành và đầu tư hệ thống xử lý để bảo vệ môi trường nhưng cũng mong chính quyền sớm cho bà con chăn nuôi trở lại để có tiền trả nợ ngân hàng, ổn định cuộc sống”, anh Phan Tú, ngụ tại xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất bày tỏ.

Đây cũng là kiến nghị của ông Nguyễn Trí Công, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai. Ông Công cũng mong mỏi các Sở, ngành cũng có sự hỗ trợ người dân trong việc thiết kế và đánh giá các hệ thống xử lý chất thải trong chăn nuôi. Sự chuẩn chỉ trong thiết kế, thi công cũng rất quan trọng bởi tránh việc mỗi người làm một kiểu, tránh “đập đi xây lại”.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Siết hoạt động vận chuyển động vật ngoại tỉnh

0

THỪA THIÊN HUẾ Cùng với kiểm soát giết mổ, tiêm phòng vacxin, việc siết chặt công tác kiểm dịch ngoại tỉnh đối với gia súc, gia cầm được cơ quan chức năng thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

Siết hoạt động vận chuyển động vật ngoại tỉnh

Cán bộ chốt kiểm dịch Nam Thừa Thiên Huế phun khử khuẩn cho phương tiện vận chuyển động vật nuôi. Ảnh: Công Điền.

Tỉnh Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương có dân số khá đông, đặc biệt thành phố Huế là đô thị trung tâm của  khu vực nên nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm động vật hàng ngày của người dân rất lớn.

Tuy nhiên lĩnh vực chăn nuôi của địa phương này chưa phát triển nên khả năng đáp ứng tại chỗ vẫn còn hạn chế nên nhu cầu nhập các sản phẩm động vật đông lạnh và động vật sống từ các tỉnh thành lân cận để giết mổ, tiêu thụ là rất lớn.

Điều này làm gia tăng áp lực quản lý dịch bệnh gia súc, gia cầm tại địa phương, nhất là đối với số lượng gia súc, gia cầm nhập về từ các địa phương khác.

Để thực hiện kiểm tra, kiểm dịch với việc vận chuyển động vật và sản phẩm động vật ngoài tỉnh vào địa phương, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Thừa Thiên Huế thành lập 2 chốt gồm: chốt kiểm dịch động Nam Thừa Thiên Huế (đóng tại xã Lộc Sơn, huyện Phú Lộc) và chốt kiểm dịch động vật Bắc Thừa Thiên Huế (đóng tại xã Phong Thu, huyện Phong Điền).

Tại mỗi chốt thường xuyên có 2 nhân viên túc trực 24/24h để kiểm tra các phương tiện vận chuyển động vật và sản phẩm động vật ra vào địa phương. Trong đó, một cán bộ địa phương cắm chốt và một cán bộ tăng cường từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y.

Siết hoạt động vận chuyển động vật ngoại tỉnh

Ngoài kiểm tra các thủ tục bắt buộc, phương tiện vận chuyển lợn được phun khử khuẩn trước khi nhập vào Thừa Thiên Huế. Ảnh: Công Điền.

Anh Bùi Văn Tuyển, cán bộ chốt kiểm dịch động vật Nam Thừa Thiên Huế chia sẻ, công việc tại chốt chủ yếu kiểm tra, đóng dấu cho phép vận chuyển động vật nuôi từ các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên vào địa phương để giết mổ.

Do các lò mổ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu nhập nguồn hàng từ các tỉnh phía Nam nên công việc của cán bộ tại chốt kiểm dịch động vật Nam Thừa Thiên Huế khá bận rộn, nhất là vào thời gian cao điểm dịp lễ, tết.

Để giúp công việc kiểm tra được nhanh chóng, Chi cục thường xuyên cử 1 cán bộ kiểm tra, cấp giấy kiểm dịch giúp các chủ xe đưa lợn đi tiêu thụ một cách nhanh chóng, tránh tình trạng ách tắc vì thiếu người.

Theo anh Lê Văn Hoàng, cán bộ chốt kiểm dịch động vật Bắc Thừa Thiên Huế, thời gian qua khi rộ lên tình trạng nhập lậu gia cầm tại các tỉnh phía Bắc, lực lượng tại chốt luôn nâng cao tinh thần không để sót phương tiện nhập động vật ngoại tỉnh vào địa phương khi chưa được kiểm tra.

Theo quy định, khi các phương tiện vận chuyển động vật từ địa phương khác vào Thừa Thiên Huế sẽ thông báo đến chốt. Các cán bộ tại chốt sẽ thực hiện kiểm tra lâm sàng đàn vật nuôi khỏe mạnh, không có biểu hiện mắc bệnh.

Cùng với đó, một yêu cầu bắt buộc là chủ phương tiện phải xuất trình chứng nhận cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh (hoặc trang trại phải đủ điều kiện vệ sinh thú y). Riêng đối với lợn phải có kết quả xét nghiệm âm tính với dịch tả lợn châu Phi mới được phép vận chuyển vào địa phương.

Sau khi kiểm tra xong, thùng xe phải được cán bộ thú y niêm phong; lô hàng được cấp giấy chứng nhận kiểm dịch động vật mới được chở đến nơi tiêu thụ.

Siết hoạt động vận chuyển động vật ngoại tỉnh

Ngoài kiểm soát chặt chẽ các phương tiện vận chuyển động vật từ ngoại tỉnh vào địa phương, lực lượng chức năng còn chú trọng việc phun khử khuẩn tại các cơ sở giết mổ gia súc để đề phòng dịch bệnh. Ảnh: Công Điền.

Tuy nhiên, theo anh Hoàng, hiện nay vẫn còn có tình trạng các chủ phương tiện không khai báo khi nhập động vật nuôi vào địa phương. Mặc dù chỉ là trường hợp cá biệt nhưng điều này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ lây lan dịch bệnh. Do đó, theo anh Hoàng, để tránh nguy cơ phát tán dịch thì ý thức của các chủ phương tiện vận chuyển động vật vẫn là điều kiện tiên quyết.

“Theo quy định, gia súc, gia cầm vận chuyển ngoại tỉnh mới phải kiểm dịch nên một số người lợi dụng điều này để trốn tránh kiểm dịch gia súc, gia cầm ra hoặc vào tỉnh”, anh Hoàng chia sẻ.

Ông Nguyễn Văn Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, bên cạnh một số biện pháp như kiểm soát chặt chẽ cơ sở giết mổ, nâng cao tỷ lệ tiêm phòng…, việc kiểm dịch động vật vận chuyển ngoại tỉnh đúng quy trình, chú trọng đến việc kiểm dịch tận gốc, nắm rõ thông tin xuất xứ luộn đơn vị luôn thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

Chính điều này đã mang lại hiệu quả tích cực trong công tác phòng chống dịch bệnh của địa phương. Minh chứng là từ đầu năm đến nay mặc dù dịch bệnh trong cả nước diễn biến phức tạp nhưng tại tỉnh Thừa Thiên Huế không xảy ra các dịch bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh, dịch tả lợn châu Phi, viêm da nổi cục…

“Lãnh đạo chi cục luôn yêu cầu các cán bộ tại chốt kiểm dịch phải ý thức và chấp hành việc kiểm tra đầy đủ thông tin hai chiều nơi xuất và nơi nhập của động vật nuôi.

Nếu trong tình huống xảy ra dịch, đơn vị sẽ phối hợp chặt chẽ lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát môi trường, Quản lý thị trường tổ chức kiểm tra việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật tại các đầu mối giao thông, chốt kiểm dịch động vật trên tuyến Quốc Lộ 1A ở 2 đầu tỉnh nhằm đề phòng, ngăn chặn dịch bệnh gia súc, gia cầm lây lan”, ông Hưng thông tin.

Tính từ đầu năm đến nay, lực lượng chức năng tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức kiểm tra, giám sát việc nhập gia súc, gia cầm giống ngoại tỉnh để phát triển chăn nuôi gồm 22 bò, 94 lợn hậu bị, 33.600 lợn giống, 136.5000 gà giống, trên 2,2 triệu quả trứng giống.

Đối với gia súc, gia cầm nhập về địa phương để giết mổ, tiêu thụ, đến nay Thừa Thiên Huế đã nhập 2.600 bò thịt, 168.400 lợn thịt, 103.500 gia cầm thịt và 1.000 tấn sản phẩm động vật đông lạnh.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Giá lúa gạo hôm nay 6/10: Thị trường tiếp tục lặng sóng

0

Theo khảo sát, giá lúa gạo hôm nay (6/10) đi ngang.  Tiền Giang xuống giống vụ lúa Đông Xuân từ ngày 5 đến ngày 15/10.

Giá lúa gạo hôm nay

Tại An Giang, giá lúa hôm nay (6/10) ổn định

Cụ thể, giá lúa IR 50404 là 7.800 – 7.900 đồng/kg. Lúa OM 5451 có giá vào khoảng 7.800 – 8.000 đồng/kg. Giá lúa Nhật vào khoảng 7.800 – 8.000 đồng/kg. Lúa Đài thơm 8 có giá trong khoảng 7.800 – 8.100 đồng/kg. 

Giá lúa OM 18 là 7.900 – 8.100 đồng/kg. Lúa Nàng Hoa 9 có giá 8.400 đồng/kg. Giá lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 15.000 đồng/kg. Giá Riêng lúa IR 50404 (khô) ghi nhận đã ngừng khảo sát trong nhiều ngày liên tiếp. 

Giá nếp tiếp tục đi ngang. Hiện, nếp AG (khô) vẫn được thu mua với giá trong khoảng 9.000 – 9.200 đồng/kg. Nếp Long An (khô) có giá trong khoảng 9.100 – 9.200 đồng/kg. Giá nếp ruột trong khoảng 16.000 – 21.000 đồng/kg. Nếp AG (tươi) và nếp Long An (tươi) tạm ngừng khảo sát. 

Giá lúa

ĐVT

Giá mua của thương lái (đồng)

Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

– Nếp AG (tươi)

kg

– Nếp Long An (tươi)

kg

– Nếp AG (khô)

kg

9.000 – 9.200

– Nếp Long An (khô)

kg

9.100 – 9.200

– Lúa IR 50404

kg

7.800 – 7.900

– Lúa Đài thơm 8

kg

7.800 – 8.100

– Lúa OM 5451

kg

7.800 – 8.000

– Lúa OM 18

kg

7.900 – 8.100

– Nàng Hoa 9

kg

8.400

– Lúa Nhật

kg

7.800 – 8.000

– Lúa IR 50404 (khô)

kg

– Lúa Nàng Nhen (khô)

kg

15.000

Giá gạo

 

Giá bán tại chợ

(đồng)

Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

– Nếp ruột

kg

16.000 – 21.000

– Gạo thường

kg

12.000 – 14.000

– Gạo Nàng Nhen

kg

26.000

– Gạo thơm thái hạt dài

kg

18.000 – 20.000

– Gạo thơm Jasmine

kg

16.000 – 18.500

– Gạo Hương Lài

kg

19.500

– Gạo trắng thông dụng

kg

16.000

– Gạo Nàng Hoa

kg

19.000

– Gạo Sóc thường

kg

16.000 – 17.000

– Gạo Sóc Thái

kg

18.500

– Gạo thơm Đài Loan

kg

21.000

– Gạo Nhật

kg

22.000

– Cám

kg

9.000 – 10.000

Bảng giá lúa gạo hôm nay 6/10 tại tỉnh An Giang. (Nguồn: Sở NN&PTNT An Giang)

Theo khảo sát tại chợ An Giang, giá gạo thường ổn định trong khoảng 12.000 – 14.000 đồng/kg. Gạo thơm Jasmine có giá 16.000 – 18.500 đồng/kg. Giá gạo trắng thông dụng là 16.000 đồng/kg. Giá gạo Sóc thường trong khoảng 16.000 – 17.000 đồng/kg. Giá gạo Sóc Thái là 18.500 đồng/kg.

 

Giá lúa gạo hôm nay 6/10: Thị trường tiếp tục lặng sóng

 

Gạo Hương Lài có giá 19.500 đồng/kg. Giá gạo Nàng Hoa ở mức 19.000 đồng/kg. Gạo thơm thái hạt dài có giá 18.000 – 20.000 đồng/kg. Gạo thơm Đài Loan có giá 21.000 đồng/kg. Gạo Nhật được bán với giá 22.000 đồng/kg. Gạo Nàng Nhen có giá ở mức 26.000 đồng/kg.

Giá cám ổn định trong khoảng 9.000 – 10.000 đồng/kg.

Giá lúa gạo hôm nay 6/10: Thị trường tiếp tục lặng sóng

Ảnh minh họa: Anh Thư

Tiền Giang: Xuống giống vụ lúa Đông Xuân từ ngày 5 đến ngày 15/10

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Tiền Giang, trước dự báo xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2023 – 2024 trên địa bàn tỉnh sẽ ở mức cao, ngành Nông nghiệp khuyến cáo người dân nên tập trung xuống giống vụ lúa Đông Xuân vào đầu tháng 10.

Theo nhận định mới nhất của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia và Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh Tiền Giang, xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2023 – 2024 trên địa bàn tỉnh có khả năng ở mức tương đương năm 2015 – 2016.

Trường hợp cực đoan kéo dài xâm nhập mặn có khả năng sẽ tương đương như mùa khô 2019 – 2020, sẽ ảnh hưởng đến vụ lúa Đông Xuân 2023 – 2024 ở Vùng Dự án Ngọt hóa Gò Công.

Do đó, để tránh ảnh hưởng của xâm nhập mặn, Sở NN&PTNT tỉnh Tiền Giang khuyến cáo khung lịch thời vụ xuống giống vụ lúa Đông Xuân là từ ngày 5 đến ngày 15/10, theo báo Ấp Bắc.

Anh Thư

Nguồn: VietNam Biz

Giá tiêu hôm nay 6/10/2023: Giảm tới 1.000 đ/kg

0

Giá tiêu hôm nay 6/10 hồi phục nhẹ tại Indonesia. Trong nước, thị trường hồ tiêu giảm tới 1.000 đ/kg, giao dịch về mức 68.500 – 71.000 đ/kg.

Giá tiêu hôm nay 6/10/2023: Giảm tới 1.000 đ/kg

Cập nhật giá tiêu trong nước và thế giới mới nhất ngày 6/10/2023

Giá tiêu hôm nay 6/10 trên thế giới

Trên thế giới, thị trường hồ tiêu ngày 6/10 quay đầu tăng nhẹ ở Indonesia nhưng đi ngang tại các quốc gia khác.

Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia tăng nhẹ 0,22%, về mức 4.175 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này cũng tăng 0,22%; ở mức 6.287 USD/tấn.

Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia duy trì ổn định ở mức 4.900 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này vẫn có giá 7.300 USD/tấn.

Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 giữ ở mức 2.950 USD/tấn.

Còn tại Việt Nam, giá hồ tiêu đen xuất khẩu loại 500 và 550 g/l lần lượt ở mức 3.500 và 3.600 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu giữ ở mức 5.100 USD/tấn.

Giá hồ tiêu thế giới hiện đã hồi phục trở lại tại Indonesia và duy trì ổn định tại các thị trường xuất khẩu khác.

Theo đánh giá của VPSA, trong ngắn hạn, lượng hàng hồ tiêu mà Trung Quốc mua có thể đã đủ dùng trong nước nên việc mua hàng trong thời gian tới có thể sẽ bị giảm.

Tuy nhiên, đánh giá chung thì việc suy giảm sản xuất liên tục thời gian qua tại một số nước trong đó vụ mùa hồ tiêu của Indonesia và Brazil được dự báo thấp hơn năm trước đã dẫn đến giảm mức dự trữ hồ tiêu trên toàn cầu.

Tính đến cuối tháng 8, sản lượng hạt tiêu năm 2023 đã được xuất khẩu gần hết, vì vậy có thể hy vọng có tác động tích cực tới thị trường trong các tháng cuối năm.

Bên cạnh đó, dự báo của ngân hàng thế giới đối với một số nền kinh tế như Mỹ, châu Âu và Trung Quốc có triển vọng tích cực vào cuối năm nên sức mua hồ tiêu và gia vị của các thị trường này sẽ khởi sắc trở lại. Điều này cũng có thể tác động đến giá tiêu từ đây đến cuối năm.

Trong xu thế lo ngại chung của tình hình lương thực thế giới nhiều khả năng sẽ thiếu, Ấn Độ đã đưa ra hạn chế cấm xuất khẩu gạo, Nga tuyên bố rút khỏi thỏa thuận biển Đen cũng là tín hiệu hỗ trợ cho thị trường nông sản nói chung và gia vị thế giới nói riêng.

Như vậy, giá tiêu thế giới ngày 6/10/2023 tăng nhẹ ở Indonesia so với hôm qua.

Giá tiêu hôm nay 6/10 ở trong nước

Ở trong nước, thị trường hồ tiêu ngày 6/10 đồng loạt giảm so với hôm qua.

Cụ thể, Đắk Lắk và Đắk Nông thu mua tại mức 69.500 đ/kg, sau khi giảm 1.000 đồng;

Tại Gia Lai, giá hồ tiêu cũng giảm mạnh, giao dịch về ngưỡng 68.500 đ/kg;

Tại Đồng Nai, thương lái đang thu mua với giá 68.500 đ/kg, sau khi giảm 1.000 đồng;

Giá hồ tiêu mới nhất tại Bà Rịa – Vũng Tàu đang giảm nhẹ về ngưỡng 71.000 đ/kg;

Còn Bình Phước vẫn giao dịch quanh giá 70.000 đ/kg, sau khi giảm 500 đồng.

Tỉnh thành Giá cả Tăng/Giảm
Đắk Lắk 69.500 -1.000
Đắk Nông 69.500 -1.000
Gia Lai 68.500 -1.000
Đồng Nai 68.500 -1.000
Bà Rịa – Vũng Tàu 71.000 -500
Bình Phước 70.000 -500

Bảng giá hồ tiêu trong nước mới nhất ngày 6/10/2023. Đơn vị: đ/kg

Giá tiêu trong nước quay đầu giảm mạnh 1.000 đ/kg ở Tây Nguyên và giảm 500 đ/kg ở khu vực Đông Nam Bộ. Qua đó, thị trường nội địa đã quay về ngưỡng 71.000 đ/kg.

Như vậy, giá tiêu trong nước ngày 6/10/2023 đang giao dịch quanh mức 68.500 – 71.000 đ/kg.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Xuất khẩu thuỷ sản tươi sống sang Trung Quốc tăng gấp 5 lần trong 8 tháng

0

8 tháng năm nay, xuất khẩu thủy sản tươi sống của Việt Nam sang Trung Quốc đã tăng đột phá 446% so với cùng kỳ năm 2022, giá cũng tăng 184%. Việt nam chủ yếu xuất sang Trung Quốc cá cảnh, cá mú, tôm hùm, tôm sú

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (VASEP) dẫn số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy 8 tháng đầu năm nay, nước này đã nhập khẩu hơn 85.000 tấn thủy sản tươi/sống, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2022. Bình quân giá nhập khẩu cũng tăng 15%.

Những con số trên cho thấy tiêu thụ nội địa của Trung Quốc đối với phân khúc thủy sản tươi/sống đã hồi phục sau khi Chính phủ dỡ bỏ những hạn chế liên quan đến dịch COVID-19.

Những loại thủy sản tươi sống được nhập khẩu và tiêu thụ nhiều nhất ở Trung Quốc gồm cá hồi, tôm, cá bơn, cá ngừ vây xanh, cá chình, cá chim, vẹm, hàu, cá hố, bào ngư, cá đù vàng, hải sâm, ngao…

Trong đó, cá hồi chiếm tỷ trọng lớn nhất với 65%, tương ứng 56.000 tấn. Ngoài ra, Trung Quốc cũng nhập khẩu lượng lớn cá cảnh, khoảng 281.000 tấn, tăng 60%.

Đứng đầu trong số nguồn cung thủy sản tươi/sống cho Trung Quốc là Na Uy với sản phẩm thế mạnh cá hồi tươi/ướp lạnh. Sau Na Uy, các nhà cung cấp thủy sản tươi sống cho Trung Quốc có thể kể đến Chile, Myanmar, Australia, Philippines, Bangladesh, quần đảo Faroes, Anh, Nhật Bản…

Nhật Bản thường cung cấp cá bơn, cá ngừ vây xanh, cá sòng, cá thu, cá chim, cá hố, hàu, sò điệp, hải sâm tươi/sống cho thị trường Trung Quốc.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã chính thức cấm nhập khẩu thủy sản Nhật bản sau khi nước này xả thải nước phóng xạ ra biển từ cuối tháng 8. Do vậy Trung Quốc sẽ phải gia tăng nhập khẩu từ các nước khác.

VASEP cho rằng trong ngắn hạn, vụ việc xả thải không chỉ ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản Nhật Bản mà còn ảnh hưởng đến ngành chế biến thủy sản và dịch vụ ăn uống trên toàn châu Á- khu vực Thái Bình Dương do một số người tiêu dùng có thể lựa chọn hải sản có nguồn gốc từ Bắc Âu.

Thủy sản tươi sống của Việt Nam chỉ chiếm thị phần khiêm tốn, khoảng 0,2% trong tổng khối lượng nhập khẩu của Trung Quốc trong8 tháng năm nay. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản tươi sống của Việt Nam sang Trung Quốc đã tăng đột phá 446% so với cùng kỳ năm 2022, giá cũng tăng 184%. Việt Nam chủ yếu xuất sang Trung Quốc cá cảnh, cá mú, tôm hùm, tôm sú…

Thượng Hải, Quảng Đông, Vân Nam là ba tỉnh nhập khẩu nhiều nhất thủy sản tươi/sống, chiếm lần lượt 39%, 16% và 11% tổng khối lượng nhập khẩu của Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm.

Trong những năm qua, mức tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người ở Trung Quốc đã tăng gấp 10 lần trong 40 năm, từ 5 kg năm 1980 lên 54 kg năm 2020.

Nhu cầu hải sản tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, trung bình người dân mua hải sản 3 – 4 lần/tháng. Riêng tại Thượng Hải người dân mua thủy sản trung bình 11 lần/tháng, tức là họ chi khoảng 30% chi phí thực phẩm để mua thủy sản. 

Cơ quan thống kê Trung Quốc cho biết tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã đạt tốc độ 6,3% trong quý II cùng những dự báo về tăng trưởng GDP năm 2023 và 2024 khá lạc quan, tăng lần lượt 5,1% và 4,6%.

Với những tín hiệu khả quan về tăng trưởng kinh tế, nhu cầu tiêu dùng của Trung Quốc, VASEP cho rằng đây sẽ là thị trường mục tiêu của nhiều nước xuất khẩu thủy sản, trong đó có Việt Nam.

“Cạnh tranh tại thị trường hơn 1 tỷ dân sẽ ngày càng nóng, nhưng với lợi thế địa lý, thủy sản Việt Nam có thể giành thị phần cao hơn bằng phân khúc thủy sản tươi/sống/ướp lạnh cho tiêu thụ nội địa của Trung Quốc, đồng thời cũng cần đa dạng hóa dạng sản phẩm chế biến cho xu hướng tiêu thụ mới của giới trẻ hiện đại ở Trung Quốc”, VASEP nhận định.

Hoàng Anh

Nguồn: VietNam Biz

Giá cà phê hôm nay 6/10/2023: Tiếp tục lao dốc

0

Giá cà phê hôm nay 6/10/2023 ở trong nước và thế giới đồng loạt giảm. Trong đó, thị trường nội địa giảm thêm 500 đ/kg, về mức 64.000 – 64.600 đ/kg.

Giá cà phê hôm nay 6/10/2023: Tiếp tục lao dốc

Cập nhật giá cà phê trong nước và thế giới mới nhất ngày 6/10/2023

Giá cà phê hôm nay 6/10 trên thế giới

Trên thế giới, sàn London và New York ngày 6/10 tiếp tục giảm nhẹ.

Trong đó, giá Robusta trên sàn London giao tháng 11/2023 giảm 2 USD, về mức 2.378 USD/tấn. Và kỳ hạn giao tháng 1/2024 trên sàn này giảm 13 USD, ở mức 2.302 USD/tấn.

Còn trên sàn New York, giá Arabica giao tháng 12/2023 quay đầu giảm them 0,95 cent; về mức 145,40 cent/lb. Và kỳ hạn giao tháng 3/2024 giảm 0,95 cent; ở mức 146,40 cent/lb.

Giá cà phê hôm nay 6/10/2023: Tiếp tục lao dốc

Giá Arabia và Robusta mới nhất ngày 6/10/2023

Theo nhận định của chuyên gia, giá cà phê thế giới liên tiếp lao dốc là do các quỹ đầu cơ thanh lý những hợp đồng đã mua trước đây. Trong phiên, có lúc Robusta về dưới mốc 2.300 USD, sau đó hồi phục lại trước khi sàn London đóng cửa.

Mặt hàng Arabica tiếp tục chịu sức ép từ thông tin thời tiết đang tốt lên ở những vùng trồng trọng điểm tại Brazil. Điều kiện thời tiết được cải thiện đã kích hoạt các quỹ và đầu cơ đẩy mạnh bán cà phê kỳ hạn. Dự báo mưa tại các vùng trồng Brazil đã làm giảm bớt lo ngại về hạn hán và gây bi quan cho giá nông sản này.

Thời gian qua đồng USD neo ở mức cao đẩy Arabica xuống mức thấp nhất 35 tuần trở lại đây. Tính đến thời điểm khảo sát, chỉ số DXY đang neo ở ngưỡng cao 106,47 điểm.

Sau khi chạm mức cao nhất 11 tháng vào đầu tuần này, chỉ số DXY đã quay đầu giảm khi các nhà đầu tư chuyển hướng sự chú ý sang dữ liệu việc làm từ Bộ Lao động Mỹ sẽ được công bố trong hôm nay 6/10.

Mối lo Fed tiếp tục nâng thêm lãi suất tiền tệ tại phiên họp cuối năm ngày càng tăng theo tỷ lệ cá cược mới nhất, đã khiến giá nông sản tiếp tục trượt dốc.

Như vậy, giá cà phê thế giới ngày 6/10/2023 tiếp tục giảm so với hôm qua.

Giá cà phê hôm nay 6/10 ở trong nước

Thị trường trong nước ngày 6/10 giảm thêm 500 đ/kg so với hôm qua.

Cụ thể, tại 3 huyện Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà của tỉnh Lâm Đồng đang đang giao dịch cùng mức 64.000 đ/kg.

Tại Đắk Lắk, huyện Cư M’gar hôm nay đang thu mua ở mức 64.500 đ/kg. Còn huyện Ea H’leo và Buôn Hồ lại đang giao dịch ở mức giá 64.400 đ/kg.

Tại tỉnh Đắk Nông, thương lái Gia Nghĩa và Đắk R’lấp đang lần lượt thu mua ở mức 64.600 và 64.500 đ/kg.

Ở Gia Lai, huyện Chư Prông đang giao dịch với giá 64.400 đ/kg, còn Pleiku và La Grai đang cùng giữ mức 64.300 đ/kg.

Còn giá thu mua tại Kon Tum hôm nay đang là 64.300 đ/kg.

Tỉnh thành Địa phương Giá cả Tăng/giảm
Lâm Đồng Di Linh 64.000 -500
Lâm Hà 64.000 -500
Bảo Lộc 64.000 -500
Đắk Lắk Cư M’gar 64.500 -500
Ea H’leo 64.400 -500
Buôn Hồ 64.400 -500
Đắk Nông Gia Nghĩa 64.600 -500
Đắk R’lấp 64.500 -500
Gia Lai Chư Prông 64.400 -500
Pleiku 64.300 -500
La Grai 64.300 -500
Kon Tum   64.300 -500

Những ngày qua, mặt hàng nông sản này ở trong nước cũng liên tiếp rớt giá. Hiện mức giá cao nhất chỉ còn là 64.600 đ/kg.

Như vậy, giá cà phê trong nước ngày 6/10/2023 đang giao dịch quanh ngưỡng 64.000 – 64.600 đ/kg đ/kg.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Liên kết sản xuất và bao tiêu không nên là điều kiện bắt buộc với doanh nghiệp xuất khẩu gạo

0

Liên quan đến Dự thảo điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo với đề xuất doanh nghiệp phải có hợp đồng liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm, VCCI cho rằng tiêu chí này nên là một nội dung khuyến khích, không phải bắt buộc cản trở hoạt động kinh doanh.

Liên kết sản xuất và bao tiêu không nên là điều kiện bắt buộc

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 107 về kinh doanh xuất khẩu gạo.

Theo Tờ trình Dự thảo, Bộ Công Thương cũng đưa ra hai phương án về điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.

Phương án 1: bổ sung điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo theo hướng “có hợp đồng liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm”. Phương án 2: giữ nguyên như quy định hiện hành.

VCCI cho rằng liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo không thể tồn tại chỉ bằng yêu cầu hành chính (điều kiện kinh doanh) mà cần cả sự đồng thuận và thiện chí từ các bên tham gia.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp và người nông dân cũng đã tự ký các thỏa thuận liên kết để nâng cao giá trị nông sản mà không cần đến bất kỳ sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.

Tuy nhiên, mỗi khi có biến động giá hoặc sản lượng, cả phía doanh nghiệp và nông dân đều dễ dàng vi phạm các hợp đồng đã ký kết. Các cơ chế bảo đảm thực thi hợp đồng, đặc biệt từ tòa án hiện chưa đảm bảo để xử lý các vi phạm hợp đồng, giúp duy trì các liên kết như vậy một cách lâu dài.

Về dài hạn, biện pháp tốt nhất để tăng cường liên kết sản xuất – tiêu thụ là cải thiện các thiết chế tư pháp bảo đảm thực thi hợp đồng, còn các biện pháp hành chính chỉ nên mang tính ngắn hạn.

Do vậy, VCCI cho rằng tiêu chí này nên được coi là một nội dung khuyến khích, không phải bắt buộc cản trở hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh chưa cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo giữ nguyên quy định như Nghị định 107 hiện hành.

Quy định ủy thác xuất khẩu chỉ phù hợp với doanh nghiệp lớn

Về uỷ thác xuất khẩu, dự thảo quy định thương nhân có giấy phép xuất khẩu gạo chỉ được uỷ thác hoặc nhận uỷ thác từ thương nhân có giấy phép.

Quy định này để tránh trường hợp doanh nghiệp không được cấp phép uỷ thác nhận từ doanh nghiệp được cấp phép để thực hiện thủ tục xuất khẩu gạo tại cơ quan hải quan, không đảm bảo công tác quản lý cũng như truy xuất nguồn gốc, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tuy nhiên, VCCI cho rằng quy định này cũng sẽ không cho phép doanh nghiệp được cấp phép xuất khẩu gạo nhận uỷ thác xuất khẩu từ doanh nghiệp chưa có giấy phép, từ đó hạn chế cơ hội xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp nhỏ đang cố gắng thâm nhập các thị trường mới.

Theo phản ánh của doanh nghiệp, các yêu cầu về điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo vẫn yêu cầu chi phí đầu tư lớn, kể cả trong trường hợp đi thuê. Các điều kiện này chỉ phù hợp với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo số lượng lớn, còn các doanh nghiệp nhỏ rất khó đáp ứng.

Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam tích cực tìm kiếm các thị trường mới như châu Âu, Canada, Trung Đông… Đây là những thị trường đòi hỏi số lượng gạo ít, nhưng chất lượng cao, quy cách bảo quản, đóng gói tốt và có giá tốt.

Hơn nữa, khách hàng tại các thị trường này (các siêu thị, chuỗi cửa hàng…) thường có nhu cầu tìm kiếm các doanh nghiệp cung cấp nhiều loại nông sản cùng lúc, chứ không chỉ riêng mặt hàng gạo. Do vậy, các doanh nghiệp này vẫn không thể đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo cao như trên mà buộc phải uỷ thác xuất khẩu cho doanh nghiệp đủ điều kiện.

Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định doanh nghiệp có giấy phép chỉ được nhận uỷ thác xuất khẩu từ thương nhân khác có giấy phép.

Hoàng Anh

Nguồn: VietNam Biz

Xuất khẩu cá tra trên đà hồi phục

0

ĐBSCL Xuất khẩu cá tra đã có tín hiệu hồi phục tốt, đạt tăng trưởng dương ở một số thị trường giúp nhiều doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này vượt qua khó khăn.

Xuất khẩu cá tra trên đà hồi phục

Xuất khẩu cá tra, trong tháng 8 đã ghi nhận Trung Quốc chiếm 32% thị phần với kim ngạch đạt 374 triệu USD. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Về xuất khẩu cá tra, trong tháng 8 đã ghi nhận Trung Quốc chiếm 32% thị phần với kim ngạch đạt 374 triệu USD. Đối với thị trường Hoa Kỳ chiếm 16%, thị trường EU chiếm 10%. Các thị trường khác như Brazil, Anh, Mexico chiếm từ 3,6 – 5%.  

Mới đây, Đoàn thanh tra của Cơ quan thanh tra và An toàn thực phẩm Hoa Kỳ (FSIS), đã đánh giá hệ thống kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm đối với cá tra Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ với kết quả tích cực. Đây sẽ là động lực thúc đẩy xuất khẩu cá tra sang Hoa Kỳ trong những tháng tới.

Xuất khẩu cá tra trên đà hồi phục

Nuôi cá tra tại ĐBSCL. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

“Mặc dù tăng trưởng xuất khẩu thủy sản vẫn chưa bằng so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, kể từ tháng 9 đến nay, xu hướng thị trường đã có tín hiệu khởi sắc, đáng chú ý là các thị trường lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và EU đã bắt đầu tăng nhập khẩu để phục vụ cho những ngày lễ cuối năm”, bà Tô Tường Lan-  Phó tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định. 

An Giang là một trong những địa phương đi đầu ở ĐBSCL trong phát triển ngành nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu với diện tích nuôi 9 tháng đầu năm năm 2023 đạt 1.780 ha, bằng so cùng kỳ năm 2022. Sản lượng hằng năm đạt trên 400.000 tấn. Toàn tỉnh hiện có 20 doanh nghiệp với 23 nhà máy chế biến cá tra, công suất chế biến đạt  323.420 tấn/năm. Riêng năm 2022 các doanh nghiệp trong tỉnh đã xuất khẩu mặt hàng cá tra đạt 162.000 tấn, thu ngoại tệ về cho tỉnh nhà đạt 380 triệu USD, tăng 1,59% về lượng và tăng 2,03% về kim ngạch.

Ông Nguyễn Hữu Dũng, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Đồng Tháp cho biết, xuất khẩu cá tra là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh, chiếm khoảng hơn 65% kim ngạch xuất khẩu. Đồng Tháp hiện có 27 doanh nghiệp chế biến cá tra phi lê xuất khẩu, tổng công suất thiết kế trên 700.000 tấn/năm, thu hút trên 20.000 lao động, các nhà máy này đều đáp ứng đủ các điều kiện sản xuất an toàn trong nước và quốc tế (BRC, ISO, HACCP …).

Tính từ đầu năm 2023 đến nay Đồng Tháp xuất khẩu cá tra qua 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đơn cử như đối với thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng 26% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh, thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng 25,4% thị trường EU chiếm tỷ trọng 11%. Hiện nay, giá thành sản xuất cá tra thịt trắng trung bình 26.850 -27.000 đồng/kg, giá bán bình quân 26.300 -26.500 đồng/kg, người nuôi cá tra có thể lỗ trên 254 triệu đồng/ha/vụ.

Xuất khẩu cá tra trên đà hồi phục

Xuất khẩu thủy sản ở ĐBSCL đã có tín hiệu hồi phục, đạt tăng trưởng dương ở một số thị trường giúp nhiều doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này vượt qua khó khăn. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Ông Doãn Tới, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nam Việt (An Giang) cho biết, tuy cá tra tại ĐBSCL bán dưới giá thành đầu tư, nhưng  thời điểm này, Trung Quốc – Hồng Kông vẫn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm cá tra Việt Nam. Và mới đây thương nhân Trung Quốc đặt mua 500 container cá tra của Công ty Cổ phần Nam Việt một lần nữa cho thấy, thị trường Trung Quốc sau 3 năm đóng cửa (thực hiện chính sách Zero Covid) giờ đã mở cửa trở lại và đặt hàng với số lượng “khủng”.

Theo ông Tới, thời gian qua Trung Quốc nhập cá tra với số lượng lớn đã làm nông dân vô cùng phấn khởi. Từ động thái mua hàng của thương nhân Trung Quốc cho thấy, muốn làm ăn ở thị trường này, trước hết doanh nghiệp phải có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có bề dày kinh nghiệm trong tổ chức sản xuất, dự báo thị trường, khả năng đáp ứng đơn hàng nhanh, số lượng lớn thì mới có thể thành công. Đối với nông dân, để tránh được rủi ro (như trong những năm qua), nông dân cần tổ chức lại liên kết với doanh nghiệp thông qua mô hình nuôi gia công hay nuôi liên kết với doanh nghiệp, có vậy thì tỷ lệ rủi ro người nuôi cá tra sẽ thấp đi, nông dân không còn phải chạy lo đầu ra.

Theo bà Tô Tường Lan, xuất khẩu thủy sản trong 9 tháng đầu năm 2023 đạt hơn 5,9 tỷ USD, trong đó các mặt hàng chủ lực như tôm đạt 2,2 tỷ USD, cá tra đạt 1,2 tỷ USD và hải sản khác đạt gần 2 tỷ USD.  Phân tích cụ thể đối với các mặt hàng chủ lực, bà Lan cho hay: Về xuất khẩu tôm, “top” 5 thị trường tiêu thụ tôm sú lớn là thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan. Thị trường lớn nhập khẩu tôm thẻ lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…

Tuy xuất khẩu chưa đột phá nhưng 3 tháng gần đây nhất xuất khẩu tôm có doanh số cao hơn hẳn so với những tháng đầu năm. Sự khởi sắc thể hiện rất rõ rệt ở thị trường Hoa Kỳ, khi mà doanh số tăng liên tục qua các tháng. Xuất khẩu tôm sang Trung Quốc trong tháng 7 cũng ghi nhận tháng thứ 2 tăng trưởng dương.

Bài viết có sự phối hợp của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 6/10/2023

0

Bảng giá vàng 9999, 24K, 18K, 14K, 10K, SJC, Mi hồng, BTMC, DOJI, PNJ hôm nay 6/10/2023. Giá vàng hôm nay 6/10 tăng hay giảm? Bao nhiêu một lượng?

Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 6/10/2023

Bảng giá vàng 9999 24K 18K 14K 10K SJC, Mi Hồng, DOJI, PNJ, Phú Quý, BTMC hôm nay 6/10/2023

Giá vàng hôm nay 6/10 trên thế giới

Vào lúc 9h40, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco đang ở mức 1.823,8 – 1.824,3 USD/ounce. Tuần này, thị trường vàng thế giới giảm nhẹ về mức 1.820,20 USD/ounce.

Kim loại quý tăng nhẹ trở lại và đang hướng lên ngưỡng 1.825 USD/ounce. Trong bối cảnh, đồng USD vẫn đang tăng.

Tại thời điểm khảo sát, DXY đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) tăng nhẹ 0,06%; lên mức 106,41.

Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 6/10/2023

Biểu đồ giá vàng thế giới mới nhất hôm nay 6/10/2023 (tính đến 9h40). Ảnh: Kitco

Giá vàng thế giới hôm nay tăng nhẹ khi các nhà đầu tư chờ đợi báo cáo tình hình việc làm tháng 9 của Bộ Lao động Mỹ sẽ được công bố vào sáng thứ 6 này.

Số lượng việc làm phi nông nghiệp quan trọng dự kiến sẽ tăng 170.000 so với mức tăng 187.000 trong báo cáo tháng 9. Báo cáo việc làm trong khu vực tư nhân công bố hôm thứ 4 cho thấy, thị trường lao động Mỹ tiếp tục có dấu hiệu hạ nhiệt đang khiến nhiều người kỳ vọng rằng sẽ được chứng kiến một báo cáo đáng thất vọng nữa từ Bộ Lao động Mỹ.

Nền kinh tế Mỹ đang suy yếu thực sự sẽ là một điều tốt cho thị trường, vì nó có thể sẽ làm dịu đà tăng của lợi suất trái phiếu.

Kể từ cuộc họp chính sách tiền tệ gần đây nhất, lập trường chính sách mạnh mẽ của Fed rằng lãi suất sẽ giữ “cao hơn trong thời gian dài” liên tiếp gây thiệt hại cho vàng khi giá giữ gần mức thấp nhất kể từ tháng 3.

Trong khi đó, hầu hết các ý kiến đều cho rằng kim loại quý có khả năng giảm nữa, các chuyên gia kinh tế tại Ngân hàng ING vẫn tin rằng, bất chấp sự suy yếu trong ngắn hạn, giá vẫn có thể tăng trên 2.000 USD/ounce vào năm tới và cao hơn cho đến năm 2025.

Ewa Manthey – Chiến lược gia hàng hóa tại ING giải thích, bất chấp thái độ quyết liệt của Fed, ông cho rằng Fed đã hoàn tất việc tăng lãi suất và đang chuẩn bị cho việc cắt giảm lãi suất vào năm 2024.

“Chúng tôi kỳ vọng giá sẽ tăng trở lại trong quý đầu tiên của năm 2024, đạt mức trung bình 1.950 USD/ounce khi Fed bắt đầu cắt giảm lãi suất trong quý đầu tiên của năm tới, đồng USD suy yếu, nhu cầu trú ẩn an toàn tăng lên trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bất ổn và sức mua của ngân hàng trung ương vẫn ở mức cao” – bà Ewa Manthey cho hay.

Trong báo cáo mới đây của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), nhu cầu của ngân hàng trung ương tiếp tục thống trị thị trường vàng và có thể là yếu tố quan trọng giải thích tại sao vàng tiếp tục giữ mức hỗ trợ dài hạn quan trọng khi đối mặt với lợi suất trái phiếu tăng và sức mạnh dai dẳng của đồng USD.

Theo đó, đã có 77 tấn vàng được các ngân hàng trung ương mua trong tháng 8, tăng 38% so với lượng mua vào tháng 7. WGC lưu ý rằng, trong 3 tháng qua, các ngân hàng trung ương đã mua 219 tấn vàng. Các nhà phân tích kinh tế cho biết, nhu cầu của ngân hàng trung ương đang trên đà chứng kiến nhu cầu lành mạnh trong năm nay.

Như vậy, giá vàng hôm nay 6/10/2023 trên thế giới (lúc 9h40) đang giao dịch ở mức 1.824 USD/ounce.

Giá vàng hôm nay 6/10 ở trong nước

Giá vàng trong nước hôm nay 6/10 (lúc 9h40) ít biến động so với hôm qua.

Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 6/10/2023

Giá vàng 9999, SJC, Mi Hồng, DOJI, PNJ, Phú Quý, BTMC hôm nay 6/10/2023 (tính đến 9h40)

Cụ thể, vàng SJC tại Công ty SJC (Hà Nội) niêm yết ở mức 68,30-69,02 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); đi ngang ở chiều mua và bán.

Vàng 9999 tại Tập đoàn Phú Quý niêm yết ở mức 68,25-68,95 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); giữ nguyên ở chiều mua và chiều bán.

Vàng PNJ tại Hà Nội và TP.HCM đang giao dịch ở mức 68,30-69,00 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); không đổi ở chiều mua và bán.

Vàng miếng tại Bảo Tín Minh Châu giao dịch ở mức 68,35-68,98 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); không đổi ở chiều mua nhưng tăng 30 ngàn đồng/lượng ở chiều bán.

Vàng DOJI tại Hà Nội niêm yết ở ngưỡng 68,15-69,05 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); tăng 50 ngàn đồng/lượng ở chiều mua và bán.

Tại TP.HCM, vàng DOJI đang giao dịch quanh mức giá 68,25-68,95 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); đi ngang ở chiều mua và chiều bán.

Còn vàng Mi Hồng niêm yết ở mức 68,50-68,90 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra); tăng 50 ngàn đồng/lượng ở chiều mua nhưng đi ngang ở chiều bán.

Bảng giá vàng 9999 24K 18K SJC DOJI PNJ hôm nay 6/10/2023

Biểu đồ giá vàng 9999 mới nhất hôm nay 6/10/2023 tại Công ty SJC (tính đến 9h40)

Với tỷ giá USD hiện tại (ở mức 24,585 VND/USD), thị trường vàng trong nước đang cao hơn thế giới tới 14,725 triệu đồng/lượng.

Như vậy, giá vàng hôm nay 6/10/2023 (lúc 9h40) ở trong nước đang niêm yết quanh mức 68,15-69,05 triệu đồng/lượng.

Bảng giá vàng hôm nay 6/10 mới nhất

Dưới đây là bảng giá vàng 9999 24K 18K 14K 10K SJC mới nhất hôm nay 6/10/2023 (tính đến 9h40). Đơn vị: Ngàn đồng/lượng.

LOẠI MUA VÀO BÁN RA
TP.HCM
Vàng SJC 1 – 10 lượng 68.300 69.000
Vàng SJC 5 chỉ 68.300 69.020
Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 68.300 69.030
Vàng nhẫn SJC 9999 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 55.550 56.550
Vàng nhẫn SJC 9999 0,5 chỉ 55.550 56.650
Vàng nữ trang 99,99% (vàng 24K) 55.350 56.150
Vàng nữ trang 99% (vàng 23,7K) 54.394 55.594
Vàng nữ trang 75% (vàng 18K) 40.267 42.267
Vàng nữ trang 58,3% (vàng 14K) 30.889 32.889
Vàng nữ trang 41,7% (vàng 10K) 21.567 23.567
HÀ NỘI
Vàng SJC 68.300 69.020
ĐÀ NẴNG
Vàng SJC 68.300 69.020
NHA TRANG
Vàng SJC 68.300 69.020
CÀ MAU
Vàng SJC 68.300 69.020
HUẾ
Vàng SJC 68.270 66.830
BÌNH PHƯỚC
MIỀN TÂY
Vàng SJC 66.650 69.020
BIÊN HÒA
Vàng SJC 68.300 69.000
QUẢNG NGÃI
Vàng SJC 68.300 69.000
LONG XUYÊN
Vàng SJC 68.300 69.000
BẠC LIÊU
Vàng SJC 68.320 69.050
QUY NHƠN
Vàng SJC 68.300 69.020
PHAN RANG
Vàng SJC 68.280 69.020
HẠ LONG
Vàng SJC 68.280 69.020
QUẢNG NAM
Vàng SJC 68.280 69.020

Bảng giá vàng 9999, 24K, 18K, 14K, 10K SJC hôm nay 6/10/2023 lúc 9h40

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam