Blog

  • Giá tiêu hôm nay 11/12: Tiếp tục tăng, chạm ngưỡng 77.000 đồng/kg

    Giá tiêu hôm nay (11/12) tiếp đà tăng từ cuối tuần trước. Theo đó, hai tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Phước đang có mức giá cao nhất 77.000 đồng/kg. Đối với cao su, giá kỳ hạn trên hai sàn giao dịch tăng hơn 0,5% trong phiên sáng nay.

    Cập nhật giá tiêu

    Giá tiêu trong nước

    Theo khảo sát, giá tiêu tại các tỉnh trọng điểm trong nước đang nằm trong khoảng 74.500 – 77.000 đồng/kg, tăng 500 – 1.000 đồng/kg so với cuối tuần trước.

    Ghi nhận cho thấy, hai tỉnh Đồng Nai và Gia Lai lần lượt ghi nhận mức giá là 74.500 đồng/kg và 75.000 đồng/kg, ứng với mức tăng 1.000 đồng/kg.

    Tại Đắk Lắk và Đắk Nông, hồ tiêu được thu mua với mức giá chung là 76.000 đồng/kg, cùng tăng 1.000 đồng/kg.

    Tương tự, giá tiêu hôm nay tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Phước được niêm yết cùng mức là 77.000 đồng/kg, lần lượt tăng 1.000 đồng/kg và 500 đồng/kg.

    Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát)

    Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg)

    Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg)

    Đắk Lắk

    76.000

    +1.000

    Gia Lai

    75.000

    +1.000

    Đắk Nông

    76.000

    +1.000

    Bà Rịa – Vũng Tàu

    77.000

    +1.000

    Bình Phước

    77.000

    +500

    Đồng Nai

    74.500

    +1.000

    Giá tiêu hôm nay 11/12: Tiếp tục tăng, chạm ngưỡng 77.000 đồng/kg

     

    Giá tiêu thế giới

    Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 8/12 (theo giờ địa phương), giá tiêu đen Lampung (Indonesia) tăng 0,23% so với ngày 7/12.

    Song song đó, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 và tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn duy trì ổn định.

    Tên loại

    Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn)

    Ngày 7/12

    Ngày 8/12

    % thay đổi

    Tiêu đen Lampung (Indonesia)

    3.973

    3.982

    0,23

    Tiêu đen Brazil ASTA 570

    3.000

    3.000

    0

    Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA

    4.900

    4.900

    0

    Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok tăng 0,23% so với phiên hôm trước, trong khi giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh mới.

    Tên loại

    Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn)

    Ngày 7/12

    Ngày 8/12

    % thay đổi

    Tiêu trắng Muntok

    6.170

    6.184

    0,23

    Tiêu trắng Malaysia ASTA

    7.300

    7.300

    0

    Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong 9 tháng đầu năm 2023, Hà Lan nhập khẩu hạt tiêu từ Việt Nam đạt xấp xỉ 5,44 nghìn tấn, trị giá gần 22,96 triệu EUR (tương đương 24,95 triệu USD), giảm 35,3% về lượng và giảm 46,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.

    Mặc dù vậy, thị phần hạt tiêu của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Hà Lan từ thị trường ngoại khối EU trong 9 tháng đầu năm 2023 tương đối ổn định, ở mức 64,56%.

    Tương tự, Hà Lan giảm nhập khẩu hạt tiêu từ Brazil trong 9 tháng đầu năm 2023, giảm 36,9% về lượng và giảm 43,5% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 1,58 nghìn tấn, trị giá 5,44 triệu EUR (tương đương 5,92 triệu USD).

    Thị phần hạt tiêu của Brazil trong tổng lượng nhập khẩu của Hà Lan từ thị trường ngoại khối EU giảm từ 19,25% trong 9 tháng đầu năm 2022 xuống còn 18,76% trong 9 tháng đầu năm 2023.

    Ngược lại, Hà Lan tăng nhập khẩu hạt tiêu từ Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2023, tăng 162,2% về lượng và tăng 45,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 253 tấn, trị giá 752 nghìn EUR (tương đương 818 nghìn USD).

    Thị phần hạt tiêu của Trung Quốc trong tổng lượng nhập khẩu của Hà Lan từ thị trường ngoại khối EU tăng từ 0,74% trong 9 tháng đầu năm 2022 lên 3% trong 9 tháng đầu năm 2023.

    Giá tiêu hôm nay 11/12: Tiếp tục tăng, chạm ngưỡng 77.000 đồng/kg

    Ảnh: Bình An

    Cập nhật giá cao su

    Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 12/2023 đạt mức 236,7 yen/kg, không đổi tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).

    Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 1/2024 được điều chỉnh lên mức 13.330 nhân dân tệ/tấn, tăng 0,53% (tương đương 70 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó. 

    Theo báo cáo mới nhất của Hiệp hội các nước sản xuất cao su tự nhiên (ANRPC), sản lượng cao su tự nhiên toàn cầu dự kiến đạt trên 1,54 triệu tấn trong tháng 10/2023, tăng 9,2% so với tháng trước và tăng 5,3% so với tháng 10/2022.

    Tiêu thụ cao su tự nhiên đạt 1,35 triệu tấn, giảm 0,6% so với tháng trước và giảm 0,8% so với tháng 10/2022.

    Năm 2023, sản lượng cao su tự nhiên toàn cầu dự kiến sẽ đạt trên 14,93 triệu tấn, tăng 2,3% so với năm 2022.

    Trong đó, sản lượng cao su tự nhiên của Thái Lan tăng 2,5%, Indonesia tăng 1,8%, Trung Quốc giảm 1,9%, Ấn Độ tăng 3,8%, Việt Nam tăng 4,1%, Malaysia giảm 2,9% và các nước khác tăng 2,8%.

    Tiêu thụ cao su tự nhiên toàn cầu năm 2023 dự kiến đạt 15,57 triệu tấn, tăng 0,2% so với năm 2022.

    Trong đó, tiêu thụ cao su tự nhiên của Trung Quốc tăng 3,5%, Ấn Độ tăng 5,7%, Thái Lan giảm 26%, Malaysia tăng 5,8%, Việt Nam tăng 0,2% và các nước khác tăng 0,6%.

    Ngày 12/10, Hiệp hội các nước sản xuất cao su tự nhiên kêu gọi EU xem xét sâu hơn về vai trò của ngành cao su tự nhiên trong phát triển bền vững.

    Về nguyên tắc, ANRPC sẽ hỗ trợ mọi hoạt động thúc đẩy tính bền vững và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên một cách công bằng, rõ ràng và bền vững mà không tạo ra các rào cản thương mại không cần thiết và gây tổn hại cho cộng đồng địa phương.

    Đồng thời, nhấn mạnh vai trò của cao su tự nhiên như một nguyên liệu thô thiết yếu được sử dụng để tạo ra nhiều sản phẩm và đóng góp vào sự thịnh vượng về kinh tế, xã hội và môi trường của tất cả các bên liên quan, bao gồm nông dân/nông hộ nhỏ, cộng đồng và toàn cầu, ghi nhận từ báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).

    Bình An

    Nguồn: VietNam Biz

  • Giá thịt heo hôm nay 11/12: Đuôi heo được bán với giá 121.000 đồng/kg

    Giá thịt heo hôm nay (11/12) rơi vào khoảng 50.000 – 147.000 đồng/kg, được ghi nhận ổn định tại Công ty Thực phẩm Hà Hiền. Trong đó, giá đuôi heo hiện đang thấp hơn so với giá sườn non heo.

    Giá thịt mát Meat Deli

    Vào ngày (11/12), giá thịt heo mát Meat Deli từ trang winmart.vn đứng yên tại thời điểm khảo sát lúc 6h10. Hiện, các sản phẩm thịt heo được bán với giá trong khoảng 92.720 – 155.922 đồng/kg, trong đó các loại đang được giảm giá 20% theo chương trình ưu đãi dành cho hội viên của WinMart. 

    Theo đó, thịt đùi heo vẫn giữ mức giá thấp nhất 92.720 đồng/kg. Cao hơn là giá chân giò rút xương, thịt heo xay và nạc vai với mức lần lượt 99.122 đồng/kg, 103.922 đồng/kg và 113.520 đồng/kg. Tiếp đến là giá sản phẩm nạc dăm heo với mức ghi nhận 139.920 đồng/kg. 

    Tên sản phẩm

    Đơn vị

    Giá cuối tuần trước

    Giá hôm nay

    Thay đổi

    Nạc vai heo

    đồng/kg

    113.520

    113.520

    0

    Nạc dăm heo 

    đồng/kg

    139.920

    139.920

    0

    Thịt đùi heo

    đồng/kg

    92.720

    92.720

    0

    Thịt heo xay loại 1

    đồng/kg

    103.922

    103.922

    0

    Chân giò rút xương

    đồng/kg

    99.122

    99.122

    0

    Thịt ba rọi

    đồng/kg

    155.922

    155.922

    0

    Bảng giá thịt mát Meat Deli. Nguồn: winmart.vn.

    Giá thịt heo tại Công ty Thực phẩm bán lẻ

    Giá thịt heo tại Công ty Thực phẩm Tươi sống Hà Hiền lặng sóng thời điểm khảo sát lúc 6h10. Hiện, các sản phẩm thịt heo được bán trong khoảng 50.000 – 147.000 đồng/kg. 

    Cụ thể, đuôi heo và sườn non heo được bán với giá tương ứng 121.000 đồng/kg và 147.000 đồng/kg. Theo sau là giá 4 sản phẩm nạc vai heo, nạc đùi heo, sườn già heo và ba rọi heo lần lượt với mức 95.000 đồng/kg, 96.000 đồng/kg, 105.000 đồng/kg và 106.000 đồng/kg. 

    Tên sản phẩm

    Đơn vị

    Giá cuối tuần trước

    Giá hôm nay

    Thay đổi

    Giá thịt ba rọi

    đồng/kg

    106.000

    106.000

    0

    Giá sườn non heo

    đồng/kg

    147.000

    147.000

    0

    Giá sườn già heo

    đồng/kg

    105.000

    105.000

    0

    Giá thịt nạc vai

    đồng/kg

    95.000

    95.000

    0

    Đuôi heo

    đồng/kg

    121.000

    121.000

    0

    Mỡ heo

    đồng/kg

    50.000

    50.000

    0

    Giá nạc đùi heo

    đồng/kg

    96.000

    96.000

    0

    Bảng giá thịt heo Thực phẩm Tươi sống Hà Hiền hôm nay. Nguồn: thucphamhahien.com. 

    Giá thịt heo hôm nay 11/12: Đuôi heo được bán với giá 121.000 đồng/kg

     

    Giá heo hơi trong nước

    Thị trường heo hơi tại miền Bắc không ghi nhận thay đổi mới. 

    Hiện tại, thương lái ở Lào Cai và Ninh Bình đang thu mua heo hơi với giá thấp nhất khu vực là 48.000 đồng/kg. 

    Trong khi đó, heo hơi tại Yên Bái, Hưng Yên, Thái Nguyên, Hà Nam và Hà Nội đang được giao dịch với giá cao nhất là 50.000 đồng/kg. 

    Các tỉnh thành còn lại duy trì ổn định ở mức 49.000 đồng/kg. 

    Giá heo hơi hôm nay tại miền Bắc trong khoảng 48.000 – 50.000 đồng/kg.

    Theo Trạm trưởng Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Thanh Oai Hoàng Văn Tuấn, do chăn nuôi trên địa bàn chủ yếu nhỏ lẻ, ý thức của người dân chưa cao, vẫn nhập con giống không rõ nguồn gốc và còn chủ quan, lơ là trong công tác tiêm phòng vắc xin, dẫn đến nguy cơ dịch cúm gia cầm, bệnh dịch tả heo châu Phi bùng phát rất cao. 

    Trong khi đó, việc giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ, đặc biệt tại chợ dân sinh ở các vùng nông thôn vẫn diễn ra thường xuyên, gây khó khăn cho công tác quản lý, giám sát dịch bệnh, báo Hà Nội Mới đưa tin.

    Để bảo đảm đàn vật nuôi phát triển tốt, cung cấp nguồn thực phẩm cho người dân trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới, Phó Chủ tịch UBND huyện Chương Mỹ (Hà Nội) Đỗ Hoàng Anh Châu cho hay, huyện đã chỉ đạo các xã, thị trấn đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức cho người dân trong công tác phòng, chống dịch bệnh; đồng thời, xử lý nghiêm các trường hợp giấu dịch, chậm báo cáo dịch bệnh, bán chạy động vật nghi mắc bệnh, làm lây lan dịch bệnh…

    Theo ghi nhận, giá heo hơi ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên đi ngang trên diện rộng. 

    Theo đó, giá heo hơi tại Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Bình Định, Đắk Lắk và Ninh Thuận là 47.000 đồng/kg – thấp nhất khu vực. 

    Ngoại trừ Quảng Bình và Quảng Ngãi đang neo tại ngưỡng 49.000 đồng/kg, các tỉnh còn lại có giá heo hơi là 48.000 đồng/kg. 

    Hiện tại, giá heo hơi ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên trong khoảng 47.000 – 49.000 đồng/kg.

    Ở khu vực phía Nam, giá heo hơi cũng không có thay đổi mới. 

    Cụ thể, giá heo hơi tại Cà Mau là 51.000 đồng/kg – cao nhất khu vực. 

    Heo hơi tại các tỉnh thành còn lại được thu mua ổn định với giá trong khoảng 47.000 – 50.000 đồng/kg. 

    Giá heo hơi khu vực miền Nam hôm nay dao động trong khoảng 47.000 – 51.000 đồng/kg.

    Nhìn chung, giá heo hơi hôm nay đi ngang. Hiện tại, giá khảo sát ở các tỉnh thành dao động trong khoảng 47.000 – 51.000 đồng/kg.

    Thư Nguyễn

    Nguồn: VietNam Biz

  • Ngồi ghế, đi giày, mặc comple làm cỏ ruộng rau

    Bí quyết của HTX Nông nghiệp Tiền Lệ là sạch, từ lâu người dân ở vùng trồng rau này không sử dụng thuốc trừ cỏ, lượng phân bón và thuốc hóa học giảm đáng kể.

    Ngồi ghế, đi giày, mặc comple làm cỏ ruộng rau

    Ông Nguyễn Văn Hào, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tiền Lệ cho biết, HTX có 500 hộ sản xuất rau trên tổng diện tích trên 40ha. Ảnh: Hồng Thắm.

    Dẫn chúng tôi thăm vùng trồng rau sạch lớn nhất Hà Nội, ông Nguyễn Văn Hào, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tiền Lệ, huyện Hoài Đức cho biết, HTX có 500 hộ sản xuất rau trên tổng diện tích trên 40ha, trong đó 33ha đạt tiêu chuẩn VietGAP.

    Ông Hào cho hay, thời gian qua, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc rau an toàn cho bà con trong HTX. Đồng thời, các cơ quan chức năng huyện và thành phố cũng thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, giám sát quy trình sản xuất rau của xã viên HTX tại thực địa.

    “Trước đây, khi chưa có sự hỗ trợ, bà con nông dân có thói quen sử dụng phân chuồng chưa qua ủ, nhưng từ sau khi tập huấn đã tuân thủ đúng quy trình, sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật nằm trong danh mục cho phép và thực hiện đúng thời gian cách ly. Đồng thời, cũng chuyển sang dùng các loại phân bón hữu cơ. Chính người sản xuất đã ý thức được việc phải đảm bảo sức khỏe cho bản thân”, ông Hào nói.

    Ngồi ghế, đi giày, mặc comple làm cỏ ruộng rau

    100% diện tích rau canh tác tại khu nhà lưới 2,5ha của HTX Tiền Lệ đều có sổ nhật ký, ghi lại từ ngày gieo hạt cho đến ngày thu hoạch. Ảnh: Hồng Thắm.

    Ông Nguyễn Khắc Đạo, chủ hộ sản xuất trên vùng rau 2,5ha cho hay, 100% nông dân sản xuất trong HTX đã được đào tạo, tập huấn, được cấp chứng chỉ và có kiến thức hiểu biết về an toàn thực phẩm. Riêng khu canh tác rau 2,5ha thực sự là một mô hình điển hình đáng nhân rộng. 100% diện tích canh tác đều có sổ nhật ký, ghi lại từ ngày gieo hạt cho đến ngày thu hoạch. Trong quá trình này phải ghi rõ lượng hạt, lượng phân bón, lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng.

    Cũng theo ông Đạo, trước đây, bà con chủ yếu dùng phân hóa học, hơn 20 kg/sào nhưng hiện đã chuyển sang bón phân vi sinh, không quá 7 kg/sào, giảm hơn 70% lượng phân bón hóa học so với trước. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng tương tự. Trước chủ yếu dùng thuốc hóa học, nhưng nay đã chuyển sang dùng thuốc sinh học. Thuốc sinh học có nhiều ưu điểm như thời gian cách ly ngắn, độ độc thấp, đảm bảo an toàn thực phẩm, tuy nhiên, giá thành còn hơi cao.

    “Giá rau ở vùng sản xuất này luôn đắt nhất thành phố Hà Nội. Bà con lại không phải lo đầu ra vì hiện có 5 – 6 đơn vị liên kết thu mua. Đến HTX Tiền Lệ, bà con ngồi ghế, đi giày, mặc comple… làm rau bởi không gian canh tác sạch, đảm bảo sức khỏe, làm ra những luống rau an toàn cho mọi người. Đã từ lâu rồi người dân ở vùng sản xuất rau này không sử dụng thuốc trừ cỏ, toàn bộ việc làm cỏ tại các ruộng rau đều được nhổ thủ công bằng tay”, ông Đạo tự hào khoe.

    Bà An Hà Liên, Giám đốc Cty TNHH Sản xuất – Dịch vụ Liên Anh, một trong những doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ rau của HTX Tiền Lệ cho hay, bà rất yên tâm, tin tưởng về chất lượng và dư lượng đối với những sản phẩm rau an toàn do HTX Tiền Lệ cung cấp.

    Ngồi ghế, đi giày, mặc comple làm cỏ ruộng rau

    Xã viên HTX Tiền Lệ ngồi ghế thu hoạch rau. Ảnh: Hồng Thắm.

    Theo bà Đặng Thị Thu Thủy, Trạm trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Hoài Đức, hiện HTX Tiền Lệ chủ yếu dùng các loại phân hữu cơ đã ủ hoai mục, sử dụng nguồn nước mặt, nước ngầm đã được kiểm định, tuyệt đối không sử dụng các nguồn nước ô nhiễm. Đồng thời, lượng phân bón và thuốc hóa học sử dụng giảm đi đáng kể.

    Trạm thường xuyên cử cán bộ kiểm tra, giám sát định kỳ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của bà con nông dân, làm việc với chính quyền địa phương, lập biên bản vi phạm hành chính khi xảy ra trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó, Trạm cũng đề nghị chính quyền địa phương tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của địa phương về kỹ thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn, hiệu quả, thuốc nằm trong danh mục.

    “Tổng sản lượng rau cung cấp ra thị trường của HTX Tiền Lệ đạt trên 3.000 tấn/năm, doanh thu bình quân 600 – 700 triệu/ha/năm, riêng với khu nhà lưới đạt gần 1 tỷ đồng ha/năm. Hiện HTX có 4 sản phẩm đạt OCOP 4 sao là rau dền, mùng tơi, cải ngồng, cải mơ”, ông Nguyễn Văn Hào, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tiền Lệ cho biết.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Những ‘làng chà’ dụ cá giữa biển Đông

    BÌNH ĐỊNH Nguồn lợi thủy sản ngoài khơi ngày càng cạn kiệt, biển vắng cá, những cây chà thả ngoài biển Đông thu hút được cá ngừ sọc dưa khiến nghề lưới vây đánh bắt bội thu.

    Đánh bắt kiểu truyền thống hết hiệu quả

    Tháng 8/2011, tôi may mắn được tham gia chuyến biển kéo dài hơn 20 ngày lênh đênh ngoài biển Đông trên tàu cá mang số hiệu BĐ 94439 TS (900CV) của ngư dân Nguyễn Văn Ái ở thôn Xuân Thạnh, xã Mỹ An (huyện Phù Mỹ, Bình Định). Tàu BĐ 94439 TS chuyên hành nghề lưới vây rút chì đánh bắt cá ngừ sọc dưa. Sau khi tàu ra đến ngư trường Trường Sa, đợi mãi tôi chẳng thấy tàu cá có dấu hiệu gì cho thấy sẽ khởi động việc đánh bắt.

    Trong khi đó, toàn bộ 19 thuyền viên trên tàu đều chia nhau đứng 2 bên mạn tàu, mắt chong chong nhìn ra biển. Cả tài công Nguyễn Minh Vương vừa lái tàu cũng vừa “dán mắt” lên vùng biển mênh mông phía trước. Thậm chí cả thuyền trưởng Nguyễn Công Tý cũng leo lên trụ gỗ cao phía trước mũi tàu để phóng tầm mắt ra xa nhìn bao quát mặt biển.

    Tôi không thể không ngạc nhiên, hỏi ra thì biết, tất cả ngư dân trên tàu đang dõi mắt tìm những khúc cây trôi lênh đênh trên biển, hễ nhìn thấy khúc cây đồng nghĩa là đã tìm được đàn cá.

    Ngư dân Huỳnh Thanh Châu, một trong những thuyền viên cao niên nhất trên tàu BĐ 94439 TS giải thích: Cá ngừ sọc dưa là loài cá nổi, chúng đi ăn thành đàn, ban ngày cả đàn cá kéo nhau long rong trên biển kiếm mồi. Biển thì mênh mông, không có chút bóng mát. Khi đàn cá thấy khúc cây trôi tỏa ra chút bóng mát dù rất nhỏ nhoi, chúng liền dựa vào bóng mát ấy tựa như con người đang đi giữa nắng thấy có bóng mát liền tấp vào nghỉ chân. Thế rồi những ngày sau đó, ban ngày chúng đi kiếm ăn, chiều về chúng tụ lại bóng mát ấy để nghỉ ngơi.

    Những 'làng chà' dụ cá giữa biển Đông

    Thuyền trưởng tàu cá BĐ 94439 TS leo lên trụ gỗ cao phía trước mũi tàu để phóng tầm mắt ra xa nhìn bao quát mặt biển tìm cây trôi. Ảnh: V.Đ.T.

    “Vậy nên khi phát hiện có khúc cây trôi trên biển, chúng tôi liền bơi ra cột vào khúc cây ấy lá cờ để đánh dấu, ai nấy đều mừng rơn vì cầm chắc tàu mình sẽ có được một mẻ lưới. Sáng sớm hôm sau bủa lưới quanh khúc cây trôi ấy chắc mẩm sẽ đánh bắt được ít nhất 4 – 5 tấn cá, có mẻ lưới trúng đậm đến hơn 10 tấn cá ngừ sọc dưa”, ngư dân Châu kể.

    Đó là nói chuyện trước đây, lúc ngư trường chưa cạn kiệt nguồn lợi thủy sản và tàu đánh bắt xa bờ chưa nhiều như hiện nay. Bây giờ, tàu đánh bắt xa bờ không chỉ nhiều mà công suất ngày càng lớn, lại được trang bị thiết bị hiện đại nên sản lượng đánh bắt phải chia nhỏ, thu nhập mỗi chuyến biển của mỗi tàu cá “hẻo” dần, không đủ trang trải phí tổn.

    Trước thực tế này, cách đây 2 năm, những tàu chuyên hành nghề lưới vây ở thị xã Hoài Nhơn (Bình Định) liền nghĩ ra cách thả chà ở ngoài biển Đông để tạo bóng mát cố định, làm nơi quần tụ của những đàn cá ngừ sọc dưa để đánh bắt.

    Đưa những cây chà từ bờ ra khơi

    Theo lão ngư Bùi Thanh Ninh (65 tuổi), người đang sở hữu 6 tàu cá xa bờ chuyên hành nghề lưới vây đánh bắt cá ngừ sọc dưa ở thôn Thiện Chánh 1, xã Tam Quan Bắc (thị xã Hoài Nhơn, Bình Định), đặc thù của loài cá ngừ sọc dưa là đi kiếm ăn theo dòng nước. Thế nên từ tháng 1 đến tháng 7 dương lịch hàng năm biển rất vắng cá ngừ sọc dưa vì không có dòng nước phù hợp để chúng đi kiếm ăn, trong quãng thời gian này, những tàu chuyên hành nghề lưới vây hầu hết thất thu. Từ tháng 8 năm trước đến tháng 1 dương lịch năm sau cá ngừ sọc dưa mới xuất hiện trở lại, đây là thời vụ đánh bắt chính của nghề lưới vây.

    “Càng về sau này tàu đánh bắt xa bờ càng nhiều, biển thì vắng cá nên phương thức đánh bắt “may rủi”, cho tàu chạy lang lang khắp biển để tìm những khúc cây trôi như trước đây không còn hiệu quả, lại hao tốn nhiên liệu. Thế nên cách đây 2 năm, một số ngư dân ở Hoài Nhơn đã nghĩ ra cách thả chà ngoài biển Đông, tạo bóng mát cố định để đón những đàn cá ngừ sọc dưa ghé lại “nghỉ chân”. Cách làm này cho hiệu quả rất cao nên từ một vài người làm ban đầu, càng về sau những cây chà thả ngoài biển Đông càng dày đặc cứ như một làng chài”, lão ngư Bùi Thanh Ninh cho hay.

    Những 'làng chà' dụ cá giữa biển Đông

    Khi phát hiện có khúc cây trôi trên biển, ngư dân liền bơi ra cột vào khúc cây ấy lá cờ để đánh dấu. Ảnh: V.Đ.T.

    Vùng biển ngoài khơi rất sâu, ngư dân phải khảo sát tọa độ, tìm những bãi đá ngầm nổi cao hơn đáy biển mới có thể thả chà. Chọn được điểm rồi, ngư dân cho thả một chiếc neo nặng khoảng 1 tấn xuống đáy bãi đá ngầm, chiếc neo được buộc vào sợi dây neo chuyên dụng to bằng cổ tay người lớn, dài khoảng 5.000 – 6.000m.

    Cách mặt nước biển khoảng vài ba trăm mét, ngư dân dùng tàu dừa, cành tre, cây bụi cột thành chùm để tạo bóng mát dẫn dụ cá ngừ sọc dưa về quần tụ. Bên trên dây neo ngư dân sử dụng 3 – 4 chiếc thùng xốp có thể tích khoảng 1 khối/thùng làm phao để giữ cây chà yên vị giữa sóng gió. Đầu tư cho 1 cây chà hàng vài trăm triệu đồng, nhưng hiệu quả mang lại rất cao nên càng ngày ngư trường Trường Sa càng mọc dày những cây chà”, lão ngư Bùi Thanh Ninh ở thôn Thiện Chánh 1, xã Tam Quan Bắc (thị xã Hoài Nhơn, Bình Định) chia sẻ.

    Theo lão ngư Bùi Thanh Ninh, thả mành chài đánh bắt cá là nghề truyền thống của ngư dân Bình Định, nhưng trước đây chỉ xuất hiện ở vùng biển gần bờ và vùng lộng. Chà là những tàu dừa, cành tre, cây bụi được cột dính chùm, thả lơ lửng cách mặt nước biển để dẫn dụ cá đến quần cư rồi đánh bắt bằng lưới vây. Bây giờ, hình thức thả chà đánh cá này được di chuyển ra biển Đông với quy mô lớn hơn để đón những đàn cá cả tấn.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Cá nổi nhỏ còn nhiều tiềm năng khai thác ở biển Việt Nam

    Viện Nghiên cứu Hải sản đã hoàn thiện và cập nhật hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu phục vụ dự báo ngư trường khai thác nguồn lợi cá nổi nhỏ trên biển.

    Cá nổi nhỏ còn nhiều tiềm năng khai thác ở biển Việt Nam

    Khai thác cá nổi nhỏ ở Bạch Long Vĩ. Ảnh: Hoàng Minh.

    Cá nổi nhỏ được đánh giá là chiếm tỷ lệ cao trong trữ lượng và tổng sản lượng khai thác cá biển ở biển Việt Nam. Theo từng vùng biển, tỷ lệ trữ lượng nguồn lợi của các nhóm cá nổi nhỏ có những đặc trưng riêng và có sự biến động khác nhau giữa các mùa gió.

    Cá nổi nhỏ  bao gồm nhiều loại cá nhỏ có kích thước khác nhau, có xu hướng tụ lại tạo thành đàn cá, thức ăn của chúng là sinh vật phù du ở lớp nước gần bề mặt biển, thành phần chủ yếu gồm cá nục, cá trích, cá cơm, cá khế, cá bạc má,… 

    Ở vịnh Bắc Bộ, nhóm cá nục và nhóm cá trích chiếm ưu thế ở cả mùa gió Tây Nam và Đông Bắc, với tỉ lệ tương ứng là 44% và 31% đối với cá nục; 22% và 27% đối với cá trích. Nhóm cá nổi nhỏ khác chiếm khoảng 3,2-3,3% trong tổng trữ lượng nguồn lợi.

    Trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường biển và áp lực khai thác đã làm cho phân bố nguồn lợi nói chung và cá nổi nhỏ nói riêng có nhiều thay đổi.

    Do đó, muốn đem lại hiệu quả cao trong khai thác hải sản thì ngoài đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, lực lượng lao động và năng lực quản lý phù hợp mà còn rất cần sự đóng góp của khoa học nghề cá, trong đó dự báo ngư trường khai thác là yêu cầu cấp thiết, trong đó có dự báo cá nổi nhỏ.

    Theo tìm hiểu, nước ta hiện có hơn 90 nghìn tàu thuyền có chiều dài từ 6m trở lên tham gia khai thác hải sản trên biển, trong đó nghề lưới vây chiếm khoảng 8%, nghề lưới rê chiếm 35%, còn lại là nghề chụp.

    Cá nổi nhỏ còn nhiều tiềm năng khai thác ở biển Việt Nam

    Việc khai thác cá nổi nhỏ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dẫn đến sản lượng khai thác không ổn định. Ảnh: Đinh Mười.

    Hiện nay, nhiều tàu đóng mới làm nghề lưới vây, rê thường trang bị máy công suất lớn và thiết bị khai thác hiện đại như: lưới vây cơ giới, sử dụng ánh sáng đèn LED và máy dò cá đã làm tăng sản lượng khai thác.

    Tuy nhiên, còn nhiều tàu khai thác cá nổi nhỏ chưa có điều kiện trang bị nên chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dẫn đến sản lượng khai thác không ổn định, chưa thực sự mang lại hiệu quả. Nhất là trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường biển và áp lực khai thác đã làm cho phân bố nguồn lợi nói chung và cá nổi nhỏ nói riêng có nhiều thay đổi.

    Điều này cho thấy, ngư dân muốn đem lại hiệu quả cao trong khai thác hải sản thì ngoài đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, lực lượng lao động và năng lực quản lý phù hợp mà còn rất cần sự đóng góp của khoa học nghề cá, trong đó dự báo ngư trường khai thác là yêu cầu cấp thiết, trong đó có dự báo cá nổi nhỏ.

    Theo Viện Nghiên cứu Hải sản, nhiệm vụ nghiên cứu dự báo ngư trường khai thác nguồn lợi cá nổi nhỏ ở biển Việt Nam đã xây dựng được cơ sở dữ liệu hải dương học nghề cá, bao gồm: Cơ sở dữ liệu hải dương và cơ sở dữ liệu nghề cá đã được chuẩn hóa và kiểm chứng đáp ứng yêu cầu xây dựng dự báo ngư trường khai thác cá nổi nhỏ. Xây dựng được hệ thống công cụ xử lý dữ liệu, công cụ dự báo các trường hải dương và dự báo ngư trường.

    Cá nổi nhỏ còn nhiều tiềm năng khai thác ở biển Việt Nam

    Số lượng tàu khai thác cá nổi nhỏ ở Vịnh Bắc bộ rất lớn nhưng hiệu quả chưa cao. Ảnh: Đinh Mười.

    Các bản dự báo thử nghiệm ngư trường tập trung của một số nghề khai thác cá nổi nhỏ (nghề rê, vây và chụp) được xây dựng dựa trên tri thức bản địa theo vụ cá bắc và cá nam.

    Đồng thời một số đặc trưng hải dương cũng được thống kê, tạo cơ sở khoa học trong xây dựng dự báo ngư trường khai thác cá nổi nhỏ. Các bản dự báo ngư trường khai thác cá nổi nhỏ đã được cung cấp trên các kênh thông tin phục vụ cho hoạt đồng sản xuất.

    Bên cạnh đó, việc cập nhập số liệu thống kê nghề cá và sổ nhật ký khai thác các tỉnh ven biển từ năm 2018 đến nay đã cung cấp kịp thời các số liệu về sản lượng, vị trí khai thác của các đội tàu câu cá ngừ đại dương, nghề rê, nghề vây và nghề chụp mực phục vụ cho công tác dự báo ngư trường của ngành thủy sản.

    Thực hiện các nhiệm vụ được giao, Viện Nghiên cứu Hải sản cũng đã ứng dụng thành công mô hình thích ứng sinh thái (HSI) để xây dựng dự báo ngư trường khai thác cá nổi nhỏ biển Việt Nam từ tháng 8/2019, khởi đầu cho sự chuyển dịch từ dự báo ngư trường theo nghề khai thác sang dự báo theo loài, nhóm loài có giá trị kinh tế. Đồng thời đã ứng dụng mô hình thủy động lực học phù hợp trong mô phỏng, dự báo sự dịch chuyển của các bãi đẻ, bãi ương nuôi trứng cá, cá con phục vụ công tác khoanh vùng hạn chế cấm khai thác.

    Các thông tin dự báo ngư trường ngày càng được đổi mới và cung cấp kịp thời cho ngư dân trên các phương tiện truyền thông, trên website của Cục thủy sản và Viện Nghiên cứu Hải sản và  các trang mạng xã hội,… được phản hồi tích cực từ ngư dân.

    Cá nổi nhỏ còn nhiều tiềm năng khai thác ở biển Việt Nam

    Một loại cá nổi nhỏ được người dân Cát Hải sử dụng sản xuất nước mắm. Ảnh: Đinh Mười.

    Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Minh, Viện Nghiên cứu Hải sản cho biết, ở Việt Nam, sau hơn 20 năm nghiên cứu, cơ sở khoa học trong xây dựng dự báo ngư trường khai thác hải sản đã đạt được bước tiến đáng kể, mô hình và các sản phẩm dự báo ngư trường được đánh giá là tiên tiến, bởi nó phản ánh được mối quan hệ ngư trường, sinh học, môi trường.

    Mặt khác, các bản tin dự báo được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học vững chắc, với nguồn số liệu hải dương học và nguồn lợi được cập nhật liên tục, đảm bảo tính thực tiễn phục vụ hoạt động khai thác hải sản của ngư dân.

    Dự báo phân bố nguồn lợi hải sản và ngư trường khai thác cá biển, các loài hải sản nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm chi phí nhiên liệu và thời gian dò tìm luồng cá là hướng nghiên cứu ưu tiên của nhiều quốc gia, đặc biệt những quốc gia có các đội tàu khai thác hải sản xa bờ như Mỹ, Nhật, Nga, Pháp…

    Các công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hải sản thời gian qua đã xác định được mối quan hệ giữa cấu trúc các trường thủy động lực và môi trường biển với biến động ngư trường khai thác và có được mô hình thực nghiệm dự báo ngư trường khai thác cá nổi nhỏ ở biển Việt Nam.

    “Các đối tượng cá nổi nhỏ tuy là đối tượng còn nhiều tiềm năng khai thác di cư chủ yếu trong vùng biển đặc quyền kinh tế nước ta, nhưng cần thiết phải tiến hành xây dựng các dự báo hạn năm để có được cơ khoa học quản lý khai thác bền vững. Đây cũng được coi như một khâu không thể thiếu trong việc hoàn thiện mô hình quy trình dự báo ngư trường khai thác cá nổi nhỏ nói riêng và nhiều loài đặc hải sản nói chung ở biển Việt Nam gắn liền phát triển kinh tế với quản lý biển và hải đảo”, Thạc sĩ Nguyễn HoàngMinh chia sẻ thêm.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Hà Nội hỗ trợ tỉnh Quảng Trị 100 con bò giống

    UBND tỉnh Quảng Trị giao Công ty Cổ phần Nông nghiệp hữu cơ Thương mại Quảng Trị tiếp nhận, chăm sóc số bò giống vừa tiếp nhận từ UBND TP Hà Nội.

    Ngày 9/12, UBND TP Hà Nội đã trao hỗ trợ tỉnh Quảng Trị 80 con bò cái sinh sản giống lai Red Sindhi, Brahman đỏ, Senepol và 20 con bò đực nuôi thịt (con lai 3B F1, F2).

    Ngoài ra, TP Hà Nội còn hỗ trợ tỉnh Quảng Trị 3 nghìn liều tinh bò 3B; 2 bình nitơ loại 47 lít, 2 bình nitơ loại 35 lít, 3 bình nitơ loại 3,5 lít; 3 súng bắn tinh; 3 nghìn lít nitơ lỏng; 3 nghìn bộ găng tay và ống ghen.

    Số bò giống và thiết bị phục vụ chăn nuôi tập trung trên được Công ty Cổ phần Giống gia súc Hà Nội bàn giao.

    Hà Nội hỗ trợ tỉnh Quảng Trị 100 con bò giống

    Ký bàn giao 100 con bò giống cho tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Võ Dũng.

    Phát biểu tại buổi tiếp nhận bò giống, ông Nguyễn Phú Quốc, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Quảng Trị cho biết, thời gian qua, tỉnh đã tập trung lựa chọn con bò là đối tượng vật nuôi chủ lực để đầu tư, đẩy mạnh phát triển. Chương trình cải tạo đàn bò mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng đàn bò của tỉnh, tỷ lệ đàn bò lai Zebu chiếm trên 71% tổng đàn.

    Từ năm 2020 đến nay, Quảng Trị đã và đang thực hiện chương trình cải tạo đàn bò theo hướng chuyên thịt với các giống tinh nhập ngoại như bò 3B, Brahman. Mỗi năm Quảng Trị có hơn 3 nghìn bê lai hướng thịt ra đời, góp phần nâng cao chất lượng đàn bò và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.

    Tuy nhiên, việc triển khai tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng trong lĩnh vực chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, năng suất chất lượng đàn bò chưa cao. Các tiến bộ khoa học công nghệ ứng dụng vào thực tiễn sản xuất chưa rộng rãi…

    Hà Nội hỗ trợ tỉnh Quảng Trị 100 con bò giống

    UBND tỉnh Quảng Trị giao Công ty Cổ phần Nông nghiệp hữu cơ Thương mại Quảng Trị tiếp nhận 100 con bò để xây dựng mô hình thực nghiệm chăn nuôi bò chuyên thịt chất lượng cao. Ảnh: Võ Dũng.

    Nhận sự hỗ trợ từ TP Hà Nội, UBND tỉnh Quảng Trị đã giao Công ty Cổ phần Nông nghiệp hữu cơ Thương mại Quảng Trị làm đầu mối tiếp nhận để xây dựng mô hình thực nghiệm chăn nuôi bò chuyên thịt chất lượng cao tại Trung tâm Thực nghiệm và Chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp tại xã Hải Định, huyện Hải Lăng.

    Đây sẽ là hạt nhân để Quảng Trị xây dựng, phát triển các mô hình chân nuôi bò sinh sản, bò thịt chất lượng cao trong toàn tỉnh.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Sáng kiến quốc tế hỗ trợ nông dân ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu

    Các tổ chức quốc tế giới thiệu những sáng kiến mới trong khuôn khổ dự án ‘Phục hồi các vùng châu thổ lớn của châu Á’ tại vùng ĐBSCL.

    Giải pháp bền vững dựa trên nền tảng khoa học

    Trong hơn 7 triệu ha lúa gieo trồng ở Việt Nam mỗi năm, vùng ĐBSCL chiếm hơn 3,8 triệu ha, tương đương 53,5% tổng diện tích. 18 triệu người dân nơi đây sản xuất lương thực cho hơn 145 triệu người ở châu Á. Đây cũng là khu vực đối diện tình trạng xâm nhập mặn và khan hiếm nước tưới, với nhiều đợt hạn hán kỷ lục liên tiếp trong thập kỷ qua.

    Hậu quả là 70% diện tích đất trồng lúa bị ảnh hưởng mặn và sản lượng lúa giảm tới 30%. Nguy hiểm hơn, tình trạng này được dự đoán sẽ tiếp tục diễn ra thường xuyên hơn, nghiêm trọng hơn và ảnh hưởng tới một diện tích canh tác nông nghiệp lớn hơn trong thời gian tới.

    Sáng kiến quốc tế hỗ trợ nông dân ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu

    Dự án “Phục hồi các vùng châu thổ lớn của châu Á” (Asian Mega-Delta – AMD) hỗ trợ các nước Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam.

    Để giải quyết vấn đề này, các nhà khoa học lúa gạo vùng ĐBSCL đang hợp tác với Liên minh tư vấn về Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR) triển khai dự án “Phục hồi các vùng châu thổ lớn của châu Á” (Asian Mega-Delta – AMD). Dự án nhằm tìm kiếm giải pháp tại các vùng có nguy cơ suy thoái thổ nhưỡng, chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tại Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam. Các quốc gia tham gia Sáng kiến AMD sẽ cùng chia sẻ ứng dụng khoa học – công nghệ nhằm canh tác thông minh.

    Năm 2022, Việt Nam đã cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải dựa trên cam kết toàn cầu tại Hội nghị COP26. Theo đó, Bộ NN-PTNT tăng cường triển khai chính sách, chương trình để đạt mục tiêu sản xuất nông nghiệp an toàn với môi trường. Trong khuôn khổ Sáng kiến AMD, Bộ NN-PTNT đã phối hợp với các tổ chức quốc tế và địa phương, thực hiện các mô hình tái sử dụng rơm rạ, phương pháp tưới ướt – khô xen kẽ, hay giải pháp công nghệ nhằm dự đoán, cảnh báo độ mặn trong sản xuất cây trồng…

    Bản NDC cập nhật đã lần đầu tiên liệt kê phương pháp tưới ướt – khô xen kẽ là biện pháp giảm khí mê-tan trong nông nghiệp ở Việt Nam. Cùng các biện pháp canh tác thông minh, quản lý phụ phẩm trồng trọt, dự tính vào năm 2033, Việt Nam sẽ giảm 30% lượng phát thải so với năm 2020.

    Tiếp cận đồng bộ

    Theo TS Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, việc tham gia Sáng kiến AMD giúp Việt Nam nối dài thành công bước đầu của Sáng kiến hợp tác Nông nghiệp và Lương thực châu Á. Trên nền tảng này, Viện đã tiếp nhận khoảng 40 dòng lúa chống chịu mặn từ các trung tâm nghiên cứu lúa gạo quốc tế. Qua thử nghiệm ở Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau cho thấy, hai giống lúa tốt nhất là IRRI147 và IRR117839-22-15-B-CMU10-1-B. Hai giống này sẽ tiếp tục được thử nghiệm trên diện rộng trước khi đưa vào sản xuất tại tỉnh Sóc Trăng – địa phương chịu nhiều ảnh hưởng xâm nhập mặn.

    Sáng kiến quốc tế hỗ trợ nông dân ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu

    Ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL.

    Trong khuôn khổ Sáng kiến AMD, Viện Lúa ĐBSCL đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI) triển khai đề tài “Đảm bảo hệ thống thực phẩm của các châu thổ châu Á thông qua xác định các giống lúa chịu mặn ở Việt Nam”. Theo đó, hai viện xuống giống tại các “điểm nóng” về độ mặn tại 3 tỉnh vùng ĐBSCL, áp dụng mô hình lúa – tôm ở Sóc Trăng; lúa – cây trồng cạn ở Tiền Giang; lúa – lúa ở Kiên Giang. Đối với các hệ sinh thái trồng lúa riêng biệt trên, các nhà khoa học sẽ tiếp tục phối hợp, nghiên cứu, tìm giải pháp chống xâm nhập mặn ở giai đoạn trước thu hoạch.

    Bộ bản đồ CS-MAP tại ĐBSCL được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác chỉ đạo sản xuất lúa. Dựa vào dự báo về khí hậu hàng năm và dự báo đầu vụ, các cơ quan quản lý cấp trung ương và cấp tỉnh xác định các khu vực có thể chịu ảnh hưởng của hạn hán, lũ lụt hay xâm nhập mặn ở các mức độ khác nhau, từ đó đưa ra các khuyến cáo kỹ thuật giúp hạn chế thiệt hại đến năng suất và sản lượng lúa.

    Các nhóm giải pháp đưa ra chủ yếu là các giải pháp phi công trình như thay đổi lịch thời vụ, cắt vụ để né tránh thời điểm thời tiết cực đoan, sử dụng các giống lúa ngắn ngày, giống lúa chịu hạn, chịu mặn… Tuy nhiên, CS-MAP cũng có thể được sử dụng để xác định các khu vực có nguy cơ cao cần đầu tư nâng cấp hạ tầng thủy nông. Các ứng dụng trong tương lai của CSMAP bao gồm mở rộng ứng dụng đối với các loại cây trồng khác (hoa màu ngắn ngày, cây ăn quả…), các vùng sinh thái khác và tích hợp vào một hệ thống tổng hợp quản lý nông nghiệp.

    Ở cấp địa phương, các văn phòng khu vực và cấp tỉnh thuộc Bộ NN-PTNT đang nhân rộng Bản tin Khí hậu Nông nghiệp (Agro-Climatic Bulletin – ACB). ACB là hệ thống tư vấn nông nghiệp dựa trên dự báo khí hậu do Liên minh Đa dạng sinh học Quốc tế, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) và Cục Trồng trọt phối hợp thực hiện. Thông qua các nhóm Zalo và các kênh truyền thông (áp phích, loa phát thanh, YouTube, hội thảo), ACB đã được mở rộng tới 7 tỉnh, hỗ trợ hơn 130.000 nông dân.

    Sáng kiến quốc tế hỗ trợ nông dân ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu

    Ứng dụng công cụ bản đồ dự báo xâm nhập mặn CS-MAP.

    Nhận thấy hiệu quả của hệ thống tích hợp, các tỉnh ĐBSCL đã ban hành kế hoạch công tác theo mùa để triển khai ACB vào vụ hè thu 2022 và đông xuân 2022 – 2023. Văn phòng Cục Trồng trọt phía Nam cũng đã ban hành công văn chỉ đạo triển khai ACB trên toàn vùng ĐBSCL. 

    Bên cạnh đó, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ, ĐH Tiền Giang phối hợp với IRRI cũng thí điểm phương pháp tái sử dụng rơm sau thu hoach. Các chuyên gia hướng dẫn nông dân trồng lúa tận dụng phụ phẩm rơm rạ, ủ thành phân hữu cơ. Phương pháp này giúp giảm áp lực chi phí đầu vào, nhất là trong thời điểm giá phân bón hóa học tăng cao.

    Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt bày tỏ: “Sáng kiến AMD cung cấp nền tảng để tích hợp các chương trình do CGIAR triển khai tại Việt Nam. Ví dụ, giải pháp công nghệ CS-MAP hỗ trợ quản lý rủi ro từ cấp tỉnh đến cấp xã. Những biện pháp can thiệp này, bao gồm cả việc ủ phân từ rơm rạ sẽ giúp ĐBSCL đạt các mục tiêu về nông nghiệp xanh, bền vững”.

    Với mục tiêu xây dựng các vùng đồng bằng có khả năng thích ứng tốt, phục hồi và có tính bao quát trong toàn khu vực cũng như các vùng lân cận khu vực sông Mê Kông, sáng kiến AMD không còn nằm trong phạm vi của vùng đồng bằng canh tác lúa mà có thể liên kết giữa các vùng đồng bằng canh tác lúa với nhau.

    Trao quyền quyết định cho nông dân

    Các chuyên gia CGIAR cũng nhận ra tác động của các biện pháp chuyển đổi sử dụng đất (ví dụ từ lúa sang lúa – tôm) và chuyển dịch lao động (xu hướng di cư). Đây là 2 trong nhiều chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL. Tuy vậy, xung đột, đặc biệt là giữa nông dân trồng lúa và nuôi tôm có thể nảy sinh trong quá trình chuyển đổi này do các yếu tố bất bình đẳng và cạnh tranh tài nguyên.

    Một số phương pháp thí nghiệm hành vi ở địa phương đã được triển khai nhằm hỗ trợ cộng đồng cùng hợp tác, đưa ra quyết định trong quá trình chuyển đổi sử dụng đất.

    Sáng kiến quốc tế hỗ trợ nông dân ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu

    Nghiên cứu của CGIAR nhằm trao quyền quyết định cho cộng đồng.

    Nghiên cứu đưa ra giả thuyết những người có xu hướng hành xử thiếu thiện chí, ít hợp tác là các nhóm nông dân thiếu quyền đưa ra quyết định hoặc phải đối mặt với chi phí cao. Theo đó, các chuyên gia thiết kế trò chơi đầu tư, đặt ra các nhiệm vụ ngẫu nhiên, phân loại nông dân dựa trên trình độ nuôi tôm, trồng lúa của họ, với các mức chi phí sản xuất chênh lệch.

    Một cuộc khảo sát bằng bảng câu hỏi thu thập dữ liệu nhân khẩu học, hệ thống sản xuất, trải nghiệm về biến đổi khí hậu, chỉ số an ninh con người, mô hình di cư và sự gắn kết cộng đồng.

    Kết quả cho thấy nhóm nông dân không có quyền ra quyết định có xu hướng hành vi thiếu thiện chí hơn. Do đó, các chuyên gia cho rằng, quy hoạch sử dụng đất để thích ứng với biến đổi khí hậu cần quan tâm đến việc trang bị năng lực và kiến thức cho nông dân, không để họ bị động.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Trồng măng tây xanh hướng hữu cơ, lãi 200 triệu đồng/ha/năm

    NINH THUẬN Mô hình sản xuất măng tây xanh theo hướng hữu cơ của Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố năng suất bình quân 25 tấn/ha/năm, lợi nhuận ước đạt 200 triệu đồng/ha/năm.

    Giai đoạn 2021 – 2023, từ dự án khuyến nông trung ương hỗ trợ, Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố đã thực hiện mô hình sản xuất cây măng tây xanh theo hướng hữu cơ tại một số tỉnh trong khu vực Duyên hải Nam Trung bộ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của măng tây.

    Mô hình có quy mô 8ha, được triển khai tại 3 điểm gồm xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận) với diện tích 6ha; xã Chí Công (huyện Tuy Phong) và xã Tân Hà (huyện Đức Linh, Bình Thuận) với tổng diện tích 2ha. Tổng số hộ tham gia mô hình là 71 hộ. Mô hình sử dụng giống măng tây Atticus F1 có xuất xứ từ Hà Lan.

    Trồng măng tây xanh hướng hữu cơ, lãi 200 triệu đồng/ha/năm

    Mô hình sản xuất măng tây xanh theo hướng hữu cơ do Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố triển khai trong khuôn khổ dự án do khuyến nông trung ương hỗ trợ. Ảnh: V.Đ.T.

    Vừa qua, Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố đã tổ chức hội nghị sơ kết mô hình năm 2023 tại Ninh Thuận với sự tham gia của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Thuận, Phòng NN-PTNT các huyện, lãnh đạo các xã, HTX và đại diện các hộ dân trong vùng cùng hơn 70 nông dân tham gia mô hình.

    Hội nghị đã báo cáo kết quả đạt được của dự án trong năm, giới thiệu hiệu quả của mô hình trong dự án nhằm khuyến cáo, nhân rộng mô hình theo hướng tập trung, hiệu quả để phát triển bền vững. Hội nghị sôi nổi thảo luận, đánh giá những ưu, nhược điểm, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai dự án; đồng thời định hướng khả năng mở rộng mô hình, điều chỉnh kế hoạch thực hiện cho năm tiếp theo.

    Năng suất măng tây xanh trong mô hình ước đạt bình quân đạt 25 tấn/ha/năm, lợi nhuận ròng đạt 200 triệu đồng/ha/năm, cao hơn so rất nhiều so với các cây trồng khác.

    Trồng măng tây xanh hướng hữu cơ, lãi 200 triệu đồng/ha/năm

    Mô hình sản xuất măng tây xanh theo hướng hữu cơ của Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố cho năng suất ước đạt 25 tấn/ha/năm, lợi nhuận đạt 200 triệu đồng/ha/năm. Ảnh: V.Đ.T.

    Mô hình trong dự án đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng măng tây so với canh tác phổ biến, tạo điều kiện cho nông dân áp dụng mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao kỹ thuật canh tác, thâm canh cây măng tây theo hướng hữu cơ góp phần tăng thêm thu nhập.

    Đặc biệt, mô hình giúp cho nông dân trồng măng tây xanh thay đổi dần thói quen sản xuất truyền thống sang vận dụng kỹ thuật sản xuất theo hướng hữu cơ, ứng dụng tưới nước tiết kiệm kết hợp với phân bón hòa tan, tăng hàm lượng phân hữu cơ, giảm lượng phân bón hóa học, hướng tới nền nông nghiệp sạch, phát huy lợi thế của vùng, tiết kiệm chi phí và gia tăng giá trị sản xuất, thân thiện với môi trường.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Đề xuất 5 giải pháp phát huy hiệu quả đồng quản lý nghề cá

    Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Điều phối viên quốc gia Chương trình UNDP/GEF SGP tại Việt Nam đề xuất 5 giải pháp nhân rộng và phát huy hiệu quả hoạt động đồng quản lý.

    Đề xuất 5 giải pháp phát huy hiệu quả đồng quản lý nghề cá

    Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Điều phối viên quốc gia Chương trình UNDP/GEF SGP tại Việt Nam chia sẻ thực tế triển khai mô hình đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Ảnh: KS.

    Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện cả nước có hơn 230 mô hình đồng quản lý trong nghề cá được triển khai trên cả nước.

    Trong đó, trên 200 mô hình đồng quản lý trong lĩnh vực thủy sản được hình thành trước giai đoạn trước Luật Thủy sản (năm 2017). Cụ thể, giai đoạn 2013 – 2016 có 97 tổ đồng quản lý nghề cá ven bờ được thành lập tại 25 huyện và 8 tỉnh, với hơn 13.000 ngư dân tham gia.

    Sau năm 2017, thực hiện Luật Thủy sản có 27 tổ chức cộng đồng được công nhận và giao quyền quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản theo quy định pháp luật, với khoảng gần 2.100 ngư dân tham gia đồng quản lý trên diện tích 117.000ha tại 9 tỉnh, thành phố trên cả nước.

    Tại buổi đối thoại với chủ đề “Thúc đẩy đồng quản lý vì một nghề cá bền vững và có trách nhiệm ở Việt Nam” do Bộ NN-PTNT phối hợp cùng Hội Thủy sản Việt Nam, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức tại TP Nha Trang (Khánh Hòa) vào chiều 8/12, bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Điều phối viên quốc gia Chương trình UNDP/GEF SGP tại Việt Nam cho biết, qua thực tiễn thực thi cơ chế đồng quản lý cho thấy giai đoạn trước năm 2017, đồng quản lý trong thủy sản mới chỉ dừng ở các mô hình thử nghiệm thông qua hoạt động dự án. Hầu hết các mô hình đều không tiếp tục duy trì hoạt động khi dự án kết thúc.

    Tuy nhiên giai đoạn sau năm 2017, đồng quản lý đã được luật hóa, tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện nên đã mang lại những kết quả rất tích cực. Theo đó, người dân đã nâng cao nhận thức, ý thức trong việc giảm thiểu các hành vi vi phạm, phục hồi và phát triển, nguồn lợi thủy sản, cải thiện chất lượng môi trường và các hệ sinh thái biển, cải thiện sinh kế và tạo thu nhập cho nhiều cộng đồng ngư dân.

    Đề xuất 5 giải pháp phát huy hiệu quả đồng quản lý nghề cá

    Hiện cả nước có hơn 230 mô hình đồng quản lý trong nghề cá. Ảnh: KS.

    Thế nhưng đến nay, cơ chế đó vẫn chưa thực hiện một cách sâu rộng, mạnh mẽ từ các địa phương và cộng đồng ngư dân. Tình trạng nhiều cộng đồng ngư dân còn e ngại thực hiện hoặc lúng túng trong việc triển khai áp dụng các quy định của pháp luật còn phổ biến. Việc thực thi quyền và trách nhiệm được nhà nước giao, phương án bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản sau khi được công nhận và giao quyền của các tổ chức cộng đồng còn hạn chế.

    Theo bà Nguyễn Thị Thu Huyền, xét tổng quan, trong cả hai giai đoạn, hoạt động của các tổ chức cộng đồng về cơ bản vẫn dựa trên tinh thần tự nguyện; chưa thu hút được sự quan tâm, tham gia đông đảo của các cộng đồng dân cư, hầu hết còn dựa vào nhóm hạt nhân là chính. Tính bền vững trong hoạt động của các tổ chức cộng đồng chưa ngang tầm và chưa cao…

    Cũng theo bà Nguyễn Thị Thu Huyền, xét tổng quan, nguồn lợi thủy sản đang tiếp tục suy giảm nhưng nhận thức chưa ngang tầm; công tác quản lý vĩ mô và ở các cấp chưa đồng bộ và thống nhất; việc tổng kết pháp lý và thực tiễn một cách xứng tầm và toàn diện vẫn đang bỏ ngỏ.

    Trước thực trạng trên, nhằm tăng tính bền vững, phát huy hiệu quả hoạt động của các tổ chức cộng đồng đã được công nhận và giao quyền; cũng như tiếp tục phát triển nhân rộng đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bà Nguyễn Thị Thu Huyền đề xuất 5 giải pháp và khuyến nghị.

    Một là, tiếp tục nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến về vai trò, tầm quan trọng và kiến thức pháp luật đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản đến các cấp chính quyền, người dân, các bên hưởng lợi. Trước mắt, ấn hành sổ tay hướng dẫn về lập kế hoạch tài chính bền vững, về phương án chuyển đổi nghề nghiệp và dự báo về triển khai các mô hình sinh kế gắn với tạo dựng nguồn quỹ từ giá trị nguồn lợi thủy sản trong vùng biển đồng quản lý.

    Đề xuất 5 giải pháp phát huy hiệu quả đồng quản lý nghề cá

    Nguồn lợi thủy sản được phục hồi khi thực hiện mô hình đồng quản lý. Ảnh: KS.

    Hai là, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ UBND các cấp, người dân tiếp cận giao quyền và tổ chức thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản; gắn với xây dựng kế hoạch, bố trí kinh phí cho hoạt động tổ chức thực hiện ở các cấp, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia. Đồng thời, nghiên cứu hoàn thiện hệ chính sách, khung pháp lý thực hiện để tạo sự công bằng cho người dân, các tổ chức cộng đồng tham gia đồng quản lý, giao trách nhiệm phải đi đôi với lợi ích cụ thể. Đồng thời, quy định về trách nhiệm của những người hưởng lợi trong và ngoài vùng đồng quản lý.

    Ba là, đổi mới cơ chế phối hợp đồng quản lý giữa chính quyền các cấp, tổ chức cộng đồng và các bên liên quan theo hướng gắn với xác lập căn cứ cơ sở pháp lý rõ ràng để xây dựng kế hoạch dự toán ngân sách hàng năm cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức, chính quyền địa phương tham gia hoạt động đồng quản lý. Thành lập đội ngũ hướng dẫn, hỗ trợ từ Trung ương đến địa phương. Xây dựng chương trình và tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho các bên liên quan ở cấp cơ sở, cộng đồng người dân tham gia.

    Bốn là, ban hành chính sách hỗ trợ phát triển đồng quản lý; quy định, hướng dẫn áp dụng đối với phí bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong lĩnh vực đồng quản lý, tiến tới thành lập Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Quỹ cộng đồng từ cấp Trung ương đến địa phương. Kết nối, huy động sự tham gia của doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà quản lý cùng tổ chức cộng đồng trong tổ chức các mô hình sinh kế theo hướng kết nối liên kết khép kín theo chuỗi các hoạt động từ bảo vệ bảo tồn, khai thác, nuôi trồng thủy sản, thu mua, chế biến, cung cấp thực phẩm và sản phẩm dịch vụ, du lịch gắn với việc ban hành các cơ chế đặc thù, chính sách hỗ trợ để thực hiện đồng bộ và thống nhất.

    Năm là, chú trọng hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm, chứng nhận MSC cho nghề cá tại các khu vực đồng quản lý.

    Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260km, diện tích vùng nội thủy và lãnh hải rộng 226.000km2 , vùng đặc quyền kinh tế hơn 1.000.000km2, khoảng 4.000 hòn đảo lớn nhỏ. Theo đó, vùng biển ven bờ là nơi quần tụ đa dạng hệ sinh thái, nơi sinh cư của hơn chục ngàn loài sinh vật biển và là bãi giống, bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy, hải sản. Nghề cá ven bờ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sinh kế của cộng đồng ngư dân ven biển, nhất là những ngư dân nghèo, với 88% tổng số lao động đánh bắt, nuôi trồng hải sản. Đây là nơi hoạt động của các tàu cá cỡ nhỏ, với số lượng chiếm tới 84% tổng số tàu lắp máy và hàng nghìn tàu thủ công. Toàn bộ điều đó khiến cho vùng biển ven bờ trở thành vùng nhạy cảm, dễ bị tổn thương trước tác động của con người và biến đổi khí hậu.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

  • Quan trắc môi trường nước để phòng ngừa dịch bệnh thủy sản

    Nhờ thực hiện quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường nuôi trồng thủy sản đã giúp người nuôi chủ động phòng ngừa dịch bệnh thủy sản, hạn chế thiệt hại.

    Quan trắc môi trường nước để phòng ngừa dịch bệnh thủy sản

    Thời gian qua nhờ thực hiện quan trắc môi trường đã giúp người nuôi chủ động phòng ngừa dịch bệnh thủy sản, hạn chế thiệt hại. Ảnh: KS.

    Quan trắc, cảnh báo môi trường các vùng nuôi

    Bà Võ Thị Ngọc Trâm, Phó Giám đốc Trung tâm quan trắc môi trường và bệnh thủy sản miền Trung, thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (gọi tắt Viện III) cho biết, năm 2023, Viện III được Cục Thủy sản giao thực hiện quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi trồng thủy sản tại một số tỉnh trọng điểm khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên.

    Theo đó, đến cuối tháng 10/2023, Viện III đã thực hiện 20 đợt quan trắc định kỳ nước cấp vùng nuôi và vùng sản xuất giống tôm nước lợ tại 13 điểm quan trắc thuộc 5 tỉnh gồm Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận; 26 đợt quan trắc nước vùng nuôi tôm hùm lồng tại 7 điểm thuộc 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa và 10 đợt quan trắc nước cấp vùng nuôi cá nước lạnh tại 2 điểm thuộc tỉnh Lâm Đồng.

    Khi có kết quả quan trắc, kết hợp với bản tin dự báo tình hình thời tiết của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, Viện III đưa ra các khuyến cáo, lưu ý. Sau đó gửi thông báo kết quả quan trắc này đến Sở NN-PTNT, Chi cục Thủy sản các tỉnh, phòng NN-PTNT các huyện, thị xã, nơi có điểm quan trắc bằng hình thức Email, EMS, Zalo… Từ đó, cơ quan có thẩm quyền ở địa phương phổ biến bản tin quan trắc, giải pháp ổn định môi trường đảm bảo phát triển nuôi trồng thủy sản hiệu quả, bền vững đến cộng đồng người nuôi. Đồng thời cập nhập số liệu quan trắc vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường của Cục Thủy sản tại  http://csdlquantrac.tongcucthuysan.gov.vn:85.

    Quan trắc môi trường nước để phòng ngừa dịch bệnh thủy sản

    Nuôi trồng thủy sản lồng bè ở thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Ảnh: KS.

    Trong trường hợp có thông số môi trường vượt giới hạn cho phép hoặc phát hiện chỉ tiêu bệnh trên các đối tượng nuôi, Viện III chuyển tải đến người nuôi kịp thời bằng hình thức gọi điện thoại trực tiếp để thông báo kết quả. Điều này giúp người nuôi nắm bắt được chất lượng nước, tình hình sức khỏe của đối tượng đang nuôi.

    “Cùng với đó, chúng tôi cũng đưa ra các giải pháp nhằm ổn định môi trường nước ao nuôi, hướng dẫn phòng, trị bệnh thích hợp cho từng đối tượng nuôi. Các biện pháp đưa ra được người dân tiếp nhận, thực hiện mang lại hiệu quả trong nuôi trồng, giảm thiểu thiệt hại do phát sinh dịch bệnh”, bà Võ Thị Ngọc Trâm bày tỏ và cho biết thêm, các bản tin đã giúp cho các cơ quan quản lý thủy sản từ Trung ương đến địa phương chỉ đạo hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản hiệu quả, ứng phó kịp thời diễn biến thời tiết bất thường như nắng nóng, mưa lũ.

    Số liệu quan trắc được cập nhật vào phần mềm cơ sở dữ liệu về quan trắc môi trường của Cục Thủy sản qua từng đợt quan trắc, thuận tiện cho việc theo dõi, tra cứu, phục vụ cho công tác quản lý, quy hoạch, nuôi trồng thủy sản; cũng như công tác truy xuất nguồn gốc sản phẩm của các đoàn thanh tra nước ngoài về an toàn thực phẩm.

    Hiệu quả thiết thực

    Anh Trần Văn Quang, ở xã Xuân Thịnh, thị xã Sông Cầu (Phú Yên) hiện nuôi tôm hùm lồng trên đầm Cù Mông cho biết, trong nuôi trồng thủy sản, ngoài kinh nghiệm kỹ thuật của người nuôi thì việc nắm bắt thông tin về môi trường, dịch bệnh trong nguồn nước là rất quan trọng. Thời gian qua, người nuôi lồng bè ở đây luôn theo dõi, nhận thông tin quan trắc môi trường từ ngành chức năng để chủ động phòng ngừa dịch bệnh thủy sản và hạn chế thiệt hại.

    Quan trắc môi trường nước để phòng ngừa dịch bệnh thủy sản

    Hiện nhiều người nuôi thường xuyên theo dõi kết quả quan trắc chất lượng môi trường nước. Ảnh: KS.

    Tương tự, ông Trần Văn Vương, một người nuôi tôm nước lợ ở xã Hòa Hiệp Nam, huyện Đông Hòa (Phú Yên) cho biết, ông cũng thường xuyên theo dõi kết quả quan trắc chất lượng môi trường nước ở vùng hạ lưu sông Bàn Thạch. Đồng thời ông cũng thực hiện theo các khuyến cáo của đơn vị chức năng để có các biện pháp chủ động trong việc quản lý môi trường ao nuôi, phòng ngừa dịch bệnh cho tôm nuôi đạt hiệu quả.

    “Nhờ theo dõi thường xuyên nên việc nuôi tôm của gia đình thuận lợi hơn hẳn”, ông Vương chia sẻ.

    Ông Nguyễn Tri Phương, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Phú Yên cho biết, thời gian qua, ngoài ngành nông nghiệp, tài nguyên và môi trường của tỉnh, Sở NN-PTNT còn phối hợp Viện III thực hiện quan trắc môi trường trong nuôi trồng thủy sản lồng bè và tôm nước lợ. Các kết quả quan trắc được địa phương chuyển tải kịp thời đến người nuôi thông qua Zalo và tin nhắn điện thoại. Từ đó đưa ra giải pháp giúp người nuôi chủ động ứng phó về môi trường, dịch bệnh trên thủy sản nuôi. Cụ thể, trước đây dịch bệnh trên lồng tôm hùm gây chết trên 30%, nhưng mấy năm gần đây đã giảm xuống dưới 30%, còn tôm nước lợ tỷ lệ chết chỉ từ 3 – 5%.

    Tương tự, bà Nguyễn Thị Toàn Thư, phụ trách Phòng Nuôi trồng thủy sản (Chi cục Thủy sản Khánh Hòa) cho biết, từ năm 2016 đến nay, công tác triển khai quan trắc môi trường trong nuôi trồng thủy sản tại Khánh Hòa, trong đó có quan trắc của Viện III đã góp phần trong việc cảnh báo môi trường nước trong điều kiện thời tiết ngày càng bất lợi cho thủy sản nuôi. Các quan trắc cũng giúp cơ quan quản lý chủ động, kịp thời trong việc chỉ đạo sản xuất. Từ đó làm giảm thiểu dịch bệnh, góp phần phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh.

    Ngoài tiếp nhận thông tin cảnh báo của địa phương từ các bản tin của Viện III chuyển tải, người nuôi có thể truy cập vào trang Web của Viện III theo địa chỉ https://www.ria3.vn để nắm bắt thêm thông tin và có những biện pháp ứng phó với diễn biến thời tiết, môi trường.

    Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam