Home Blog

VNR10 cho năng suất ‘phi thường’ trong vụ hè thu

0

BÌNH ĐỊNH Vụ hè thu năm 2023 nắng nóng khắc nghiệt, sản xuất lúa trên vùng ruộng bậc thang khó khăn nhân đôi, thế nhưng năng suất lúa VNR10 đã cho nông dân nụ cười tươi rói.

Sự lựa chọn của vùng đất khó

Cánh đồng sản xuất lúa của xã Ân Hữu (huyện Hoài Ân, Bình Định) là vùng đất có địa hình dốc trụ, ruộng bậc thang, cây lúa trên ruộng cao nước tưới không tới được, cây lúa dưới ruộng thấp thì bị úng.

Theo ông Trần Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Ân Hữu, địa hình đặc thù của đồng đất Ân Hữu rất bất thuận cho canh tác lúa. Tổng diện tích canh tác lúa hàng năm ở xã này đạt hơn 620ha. Trong vụ đông xuân nếu mưa kéo dài, có đến 1/3 diện tích ruộng rộc (ruộng ở dưới thấp) bị ngập úng. Thậm chí trong vụ hè thu nếu có mưa bất thường thì diện tích ruộng rộc đều bị ngã rạp kéo dài đến 7 – 8 ngày gây mất năng suất.

VNR10 cho năng suất 'phi thường' trong vụ hè thu

Nông dân tham quan mô hình sản xuất lúa VNR10 tại xã Ân Hữu (huyện Hoài Ân, Bình Định). Ảnh: V.Đ.T.

“Đồng đất ở Ân Hữu khắc nghiệt là vậy, ở đây lại có nhiều giống lúa bà con sản xuất đến nay đã hơn 10 năm nên bắt đầu thoái hóa, thường phát sinh sâu bệnh, năng suất sụt giảm. Để ổn định sản xuất, chính quyền địa phương cùng các HTX nông nghiệp trên địa bàn đã khẩn trường tìm những giống lúa mới phù hợp để dần thay thế giống cũ”, ông Trần Văn Thanh cho biết.

“Tôi phụ trách mảng kỹ thuật của HTX Nông nghiệp 1 Ân Hữu đến nay đã gần 40 năm. Trong chừng ấy thời gian, tôi miệt mài đi tìm những giống lúa mới có tiềm năng năng suất và chất lượng cao, thích nghi với sinh thái, thổ nhưỡng của vùng đất có địa hình, thời tiết khắc nghiệt của xã”, ông Đỗ Thành Phương, Phó Giám đốc HTX Nông nghiệp 1 Ân Hữu bộc bạch.

Sau nhiều tìm tòi, HTX Nông nghiệp 1 Ân Hữu đã chọn được giống lúa thuần chất lượng cao VNR10 do Công ty Cổ phần Giống cây trồng Trung ương Quảng Nam (đơn vị trực thuộc Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam – Vinaseed Group) cung ứng để sản xuất thử.

VNR10 cho năng suất 'phi thường' trong vụ hè thu

Năng suất lúa VNR10 trong vụ hè thu 2023 đạt từ 75 – 80 tạ/ha. Ảnh: V.Đ.T.

Qua nhiều lần sản xuất thử với diện tích nhỏ và nhân ra diện rộng để theo dõi, đánh giá và nhận thấy giống lúa VNR10 thích nghi với điều kiện khí hậu, đồng đất của vùng quê bán sơn địa, có sức chống chịu tốt với sâu bệnh, cho năng suất cao, HTX Nông nghiệp 1 Ân Hữu đã tổ chức cho nông dân sản xuất đại trà. Hiện giống VNR10 đã được ngành nông nghiệp huyện Hoài Ân đưa vào cơ cấu giống của địa phương.

“Qua nhiều vụ sản xuất, chúng tôi thấy giống lúa VNR10 thích nghi với đồng đất xã Ân Hữu cả 2 vụ đông xuân lẫn hè thu bởi giống VNR10 có sức chống chịu nắng nóng rất tốt. Vụ hè thu 2023 này nắng nóng gay gắt kéo dài, nhiệt độ thường xuyên chạm ngưỡng 40 độ C, thế nhưng cây lúa VNR10 vẫn phát triển tốt. Năng suất lúa VNR10 trong vụ hè thu này rất cao, đạt từ 75 – 80 tạ/ha. Đối với vụ đông xuân, mức năng suất này là bình thường, nhưng với vụ hè thu, nhất là trên vùng đất bạc màu, khắc nghiệt này mà giống lúa VNR10 cho năng suất này quả là phi thường”, ông Đỗ Thành Phương phấn khởi.

Giống lúa khó thay thế trong vụ hè thu

Ông Đỗ Thành Phương chia sẻ thêm: Do thời tiết vụ hè thu ở vùng đất bán sơn địa này có khí hậu quá khắc nghiệt nên khi chọn được giống lúa VRN10 để sản xuất cho hiệu quả cao, không chỉ những người có trách nhiệm ở địa phương phấn khởi mà nông dân còn mừng hơn.

Cũng theo ông Phương, để phục vụ sản xuất vụ hè thu, HTX Nông nghiệp 1 Ân Hữu đã chọn được 2 giống lúa có thể “chịu đời” với nắng nóng, đó là VNR10 và ĐB6. Cả 2 giống lúa này đều là sản phẩm của Vinaseed. VNR10 là giống lúa chất lượng, gạo ngon, được người tiêu dùng rất thích, đưa vào chế biến cũng phù hợp vì gạo VNR10 có hàm lượng tinh bột khá. Riêng giống ĐB6 cho gạo có hàm lượng tinh bột rất cao nên được thị trường gạo chế biến ăn mạnh.

VNR10 cho năng suất 'phi thường' trong vụ hè thu

Lúa VNR10 trĩu bông ở vùng đất bán sơn địa bạc màu trong vụ hè thu rất khắc nghiệt. Ảnh: V.Đ.T.

Thời gian sinh trưởng của giống VNR10 trong vụ đông xuân từ 105 – 110 ngày, vụ hè thu khoảng từ 90 – 95 ngày. Đây là giống cứng cây, chống đổ ngã tốt, đặc biệt là chịu nắng nóng rất tốt nên không chỉ phù hợp sản xuất vụ đông xuân mà còn phù hợp cả vụ hè thu, nhất là đối với những địa phương có thời tiết khắc nghiệt như ở xã Ân Hữu.

“Giống lúa VNR10 mang các đặc tính nổi trội như năng suất cao, thích ứng rộng, dễ trồng, dễ chăm sóc, cứng cây, chống đổ ngã tốt, có khả năng chịu nắng nóng, nhiệt độ cao, rất phù hợp trồng cả 2 vụ/năm. Bông lúa VNR10 dài, hạt đóng sít, số hạt chắc cao. Hạt gạo trắng trong, không bạc bụng, cơm trắng, mềm xốp, mùi thơm đặc trưng, vị đậm, ngon cơm. Thời gian sinh trưởng của giống lúa VNR10 trong vụ hè thu khoảng 90 – 93 ngày, vụ đông xuân từ 105 – 110 ngày.  Năng suất trung bình 75 – 80 tạ/ha, thâm canh có thể đạt 85 – 90 tạ/ha”, ông Đỗ Thành Phương, Phó Giám đốc HTX Nông nghiệp 1 Ân Hữu cho biết.

Cũng theo ông Phương, không biết có phải do thổ nhưỡng hay do quy trình canh tác mà lúa cùng một giống lúa, sản xuất trên đất Ân Hữu được hàng xáo (thương lái chuyên mua lúa) đánh giá là có tỷ lệ gạo nguyên cao hơn các nơi khác, do đó lúa ở Ân Hữu luôn được thương lái thu mua cao hơn 1 – 2 giá so với các nơi.

VNR10 cho năng suất 'phi thường' trong vụ hè thu

Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hoài Ân (Bình Định) kiểm tra, đánh giá ruộng sản xuất lúa VNR10 của xã Ân Hữu. Ảnh: V.Đ.T.

Nông dân Trần Văn Trường ở xã Ân Hữu, người vừa thu hoạch xong 1 sào lúa (500m2/sào) VNR10, phấn khởi nói: “Vụ hè thu 2023 này là lần đầu tiên tôi sản xuất giống lúa VNR10, mới làm lần đầu mà tôi đã mê tít giống này. Ruộng tôi đã thu hoạch, lúa vừa khô và đã xay xát lấy gạo ăn. 1 sào lúa VNR10 của tôi thu hoạch được gần 450kg lúa. Gạo VNR10 mới xay ra bóng như được chà dầu phộng, nấu cơm ăn có vị đậm, mềm, dẻo nhẹ, ăn thích miệng lắm. Giống VNR10 cho năng suất cao mà rất dễ canh tác, đặc biệt giống này chống chịu sâu bệnh rất tốt, cả vụ hè thu tôi không thấy sâu bệnh gì phát sinh”.

“Do thổ nhưỡng, khí hậu ở Ân Hữu quá khắc nghiệt nên chính quyền và ngành chức năng địa phương không ngừng tìm tòi giống lúa mới cho năng suất, chất lượng cao, thích nghi với đồng đất để đưa vào sản xuất, nhất là giống lúa thích nghi với nắng nóng của vụ hè thu.

Qua nhiều vụ sản xuất, giống lúa thuần VNR10 cho thấy là giống khó thay thế trong vụ hè thu ở Ân Hữu bởi những tính ưu việt, thích nghi cao trên đồng đất Ân Hữu. Hiện nông dân trong xã đã rất tin tưởng giống lúa này nên diện tích sản xuất ngày càng được mở rộng”, ông Trần Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Ân Hữu chia sẻ.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Bộ trưởng NN&PTNT nói gì trước thông tin có tình trạng thu mua gạo ồ ạt, gây mất cân đối cung-cầu?

0

Trong bối cảnh giá gạo tăng hàng ngày, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết cần giữ thái độ bình tĩnh vì mọi vấn đề có thể phát sinh mặt trái nếu chúng ta không quản lý tốt, chỉ nhìn thì một phía, một khía cạnh.

Ngày nào ĐBSCL cũng có lúa trên đồng

Thị trường lúa gạo toàn cầu ngày càng nóng lên sau khi Ấn Độ, Nga và UAE ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo. Đây được coi là cơ hội vàng cho Việt Nam tăng cường gia tăng xuất khẩu, tuy nhiên cũng đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến giá lúa gạo trong nước, an ninh lương thực…

Tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Lê Thị Song An (đoàn Long An) cho biết giá lúa liên tục tăng nên một số địa phương có hiện tượng mua gom lúa gạo ồ ạt, gây mất cân đối cung cầu cục bộ, ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng đưa ra một số giải pháp vừa bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, vừa thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo bền vững?

Cùng quan tâm đến ngành hàng lúa gạo, đại biểu Tạ Minh Tâm (đoàn Tiền Giang) cũng đề nghị Bộ NN&PTNT cho biết những định hướng thúc đẩy hoạt động thu mua, tiêu thụ lúa gạo, gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)?

Bộ trưởng NN&PTNT nói gì trước thông tin có tình trạng thu mua gạo ồ ạt, gây mất cân đối cung-cầu?

Bộ trưởng NN&PTNT Lê Minh Hoan trả lời chất vấn về vấn đề xuất khẩu gạo. (Ảnh: Quốc hội)

Trả lời các câu hỏi chất vấn của các đại biểu, Bộ trưởng NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết Thủ tướng Chính phủ đã có công điện chỉ đạo về vấn đề xuất khẩu gạo, công điện nêu rõ khi thế giới nảy sinh vấn đề mất an ninh lương thực hoặc một số quốc gia cấm xuất khẩu gạo có thể mở ra thời cơ cho Việt Nam.

Tuy nhiên trong bối cảnh này, chúng ta cần giữ thái độ bình tĩnh vì mọi vấn đề có thể phát sinh mặt trái nếu chúng ta không quản lý tốt, chỉ nhìn thì một phía, một khía cạnh.

Công điện của Thủ tướng nhấn mạnh rằng an ninh lương thực quốc gia là vấn đề ưu tiên lớn nhất. Khi còn nguồn lực, chúng ta sẽ đẩy mạnh xuất khẩu lương thực như một cam kết có trách nhiệm với thế giới về vấn đề an ninh lương thực toàn cầu, đồng thời cũng không gây sốc cho thị trường nội địa, giá cả tăng cao ảnh hưởng đến các đối tượng dễ bị tổn thương.

Hiện, Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT đang quán triệt để thực hiện tốt Công điện này.

Riêng về khu vực ĐBSCL, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết một năm có 365 ngày thì có đến 300 ngày khu vực ĐBSCL thực hiện xuống giống. Khu vực ĐBSCL có đặc thù canh tác luân phiên theo con nước, nước rút tới đâu xuống giống tới đó nên không có mùa vụ rõ rệt như ở miền Bắc.

Do việc xuống giống liên tục và một vụ lúa ở ĐBSCL chỉ kéo dài khoảng 95 ngày nên hầu như ngày nào khu vực này cũng có lúa trên đồng, việc chia vụ Đông Xuân, Hè Thu chỉ mang tính chất thống kê.

Mặt khác, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết hơn 20 năm nay, khu vực ĐBSCL đã xây dựng được hệ thống thủy lợi hoàn thiện, bản đồ số hóa, từ đó các địa phương có thể rải vụ hoặc tập trung vụ nếu cần thiết.

“Trường hợp điều kiện khí hậu ổn định như mấy năm qua, không xảy ra thiên tai, chúng ta hoàn toàn có thể đảm bảo tiêu dùng trong nước và dư địa cho xuất khẩu gạo khoảng 7-8 triệu tấn/năm”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.

Tuy vậy, Bộ trưởng NN&PTNT cũng nhìn nhận rằng trong cấu trúc ngành hàng, giá cả được quyết định bởi yếu tố cung – cầu, khi cầu tăng, cung không thay đổi thì giá sẽ lên, điều này chúng ta không can thiệp được. Tuy nhiên ngành lúa gạo vẫn đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài như đặt cọc, tồn trữ đẩy giá, thỏa thuận mua bán mùa vụ…

Do vậy, Bộ trưởng mong muốn nông dân và doanh nghiệp phải tôn trọng và cùng chia sẻ thời cơ làm sao để mùa sau mọi người còn có thể hợp tác làm ăn với nhau.

Hiện nay, khoảng 20% diện tích lúa ĐBSCL nằm trong liên kết, điều này có nghĩa 80% diện tích nằm ngoài liên kết, chúng ta không kiểm soát được các thành phần trung gian. Do vậy, Bộ trưởng cho rằng cần chuyển từ tư duy mua bán sang tư duy hợp tác để phát triển ngành hàng lúa gạo bền vững.

Sử dụng linh hoạt 5 triệu ha đất lúa

Tại Nghị trường, đại biểu Lê Thanh Hoàn (đoàn Thanh Hóa) khẳng định đất trồng lúa có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và vấn đề đảm bảo an ninh lương thực.

Đại biểu Lê Thanh Hoàn đề nghị Bộ trưởng làm rõ đến hiện tại đã có quy hoạch và chốt được vị trí các khu vực đất lúa để cấm không cho phép chuyển nhượng, chuyển đổi sang mục đích khác để người dân yên tâm canh tác, cải tạo đất, tăng năng suất, tăng sản lượng thóc gạo, góp phần đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam trong thời gian tới?

Trả lời chất vấn về đất trồng lúa, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết cách đây 10 năm, quy mô đất lúa nước ta khoảng trên 4 triệu ha. Số liệu thống kê hiện tại, đất trồng lúa còn khoảng 3,93 triệu ha.

Theo Nghị quyết Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ, chúng ta sử dụng linh hoạt 5 triệu ha đất lúa. Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng “linh hoạt” ở đây có nghĩa là phải đảm bảo an ninh lương thực, phát triển kinh tế – xã hội vẫn luôn phải dành một quỹ đất cho ngành nông nghiệp, trong đó có đất lúa.

Hiện, quy hoạch đất lúa nằm trong quy hoạch đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Hầu hết địa phương cũng đã đều ổn định những diện tích đất lúa và đã có trong quy hoạch của tỉnh, xác định rõ phân khu vực dành cho đất nông nghiệp. 

Bộ trưởng NN&PTNT cũng lưu ý các địa phương trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội cố gắng giữ gìn quỹ đất lúa, cân nhắc khi chuyển đổi đất trồng lúa bởi còn nhiều hệ lụy ảnh hưởng phía sau như về sản lượng lúa, nông dân mưu sinh trên đất lúa và một chuỗi ngành hàng, doanh nghiệp chế biến, dịch vụ thương mại…

Bộ NN&PTNT sẽ cùng với các địa phương phân tích những tình huống khi nào chuyển đổi, khi nào không chuyển đổi đất lúa với nguyên tắc cân nhắc và cẩn trọng giữa phát triển và giữ gìn.

Hoàng Anh

Nguồn: VietNam Biz

Sâu róm tàn phá gần 2.000ha rừng thông

0

HÀ TĨNH Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng 2.000ha rừng thông phòng hộ ở Hà Tĩnh bị sâu róm ăn trụi lá.

Sâu róm tàn phá gần 2.000ha rừng thông

Trong thời gian ngắn, sâu róm đã ăn trụi lá khoảng 2.000ha thông phòng hộ. Ảnh: Thanh Nga.

Ngày 15/8, ông Nguyễn Phi Quỳnh, Trưởng Ban quản lý Rừng phòng hộ Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) thông tin, hiện nay rừng phòng hộ do đơn vị quản lý đang xuất hiện sâu róm gây hại cây thông với diện tích nhiễm khoảng 2.000ha, tập trung tại các tiểu khu 95A, 96B, 103,123, 121, 122B và 124.

“Sâu róm đã ăn trụi lá, khô lá, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình sinh trưởng của rừng thông, thậm chí nhiều diện tích đã bị chết. Ngoài ra một số diện tích đang khai thác nhựa bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, sản lượng”, ông Quỳnh nói.

Theo ông Quỳnh, mật độ sâu róm trên rừng thông bình quân từ 10 – 50 con/cây, cục bộ có nơi 300 – 400 con/cây. Nguyên nhân xuất hiện dịch sâu róm được ngành chức năng xác định là do độ ẩm lớn, kèm theo thời tiết mưa nắng thất thường.

Sâu róm tàn phá gần 2.000ha rừng thông

Nhiều diện tích thông đang khai thác nhựa bị sâu róm tàn phá, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng. Ảnh: Thanh Nga.

Ngay sau khi phát hiện dịch sâu róm, Ban Quản lý Rừng phòng hộ Hồng Lĩnh đã tiến hành phun thuốc phòng trừ 1 – 2 lần trên toàn bộ diện tích. Riêng những diện tích có mật độ sâu 300 – 400 con/cây tổ chức phun thuốc phòng trừ từ 4 – 5 lần. Tuy nhiên, theo dự báo, thời gian tới diễn biến dịch sâu róm hại thông còn phức tạp, việc phòng trừ gặp nhiều khó khăn do địa hình núi cao, dốc. Vì vậy, Ban Quản lý Rừng phòng hộ Hồng Lĩnh kiến nghị Sở NN-PTNT, Chi cục Trồng trọt và BVTV, lực lượng kiểm lâm hỗ trợ đơn vị trong công tác phòng trừ sâu róm nhằm hạn chế thiệt hại.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Phòng dịch ngay từ các nông hộ chăn nuôi

0

Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh trên đàn vật nuôi, tỉnh Bắc Kạn đang dồn lực phòng ngừa, ngăn chặn, trong đó tập trung phòng dịch ngay từ các nông hộ chăn nuôi.

Phòng dịch ngay từ các nông hộ chăn nuôi

Chị Triệu Thị Gia khử trùng chuồng trại trước khi nuôi lứa lợn nái mới. Ảnh: Ngọc Tú. 

Những ngày này, chị Triệu Thị Gia, thị trấn Phủ Thông (huyện Bạch Thông) đang chuẩn bị chuồng trại để nuôi lứa lợn mới. Lứa lợn vừa rồi nhờ làm tốt công tác phòng dịch nên chị Gia xuất bán lợn đúng kế hoạch. Dù chăn nuôi nhỏ lẻ, mỗi năm chỉ vài con lợn nái, nhưng nguồn thu nhập cũng giúp chị trang trải phần nào chi tiêu trong gia đình.

Chị Gia cho biết, chăn nuôi lợn phải hết sức chú ý phun thuốc sát trùng và có chỗ nuôi lợn biệt lập. Hiện nay dịch tả lợn Châu Phi đang diễn biến phức tạp nên trước khi chăn nuôi gia đình phải phun thuốc khử trùng 2 lần, vệ sinh chuồng trại sạch sẽ. Ngoài ra, gia đình cũng dùng những loại vacxin đã được khuyến cáo để phòng bệnh cho đàn lợn.

Hiện nay, tổng đàn lợn của huyện Bạch Thông khoảng 20.000 con, đa số các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ nên việc phòng dịch gặp khó khăn. Nhiều hộ chưa chú ý đến phòng dịch, đặc biệt là vệ sinh chuồng trại, cách ly các nguồn lây, việc phun khử khuẩn khó thực hiện đồng bộ trên diện rộng.

Ông Lăng Văn Thụy, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bạch Thông cho biết, trước thực trạng một số huyện lân cận đã có dịch tả lợn Châu Phi, đơn vị đã cử cán bộ thú y xuống từng thôn, bản để vận động, hướng dẫn bà con phun khử trùng tiêu độc chuồng trại theo đúng quy trình. Duy trì thường xuyên kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y tại các chợ dọc Quốc lộ 3.

Thông tin từ Chi cục Chăn nuôi – Thú y tỉnh Bắc Kạn cho biết, đến đầu tháng 7/2023, toàn tỉnh đã phun khử trùng tiêu độc chuồng trại, khu vực chăn nuôi, đường làng, ngõ xóm, tổng số hóa chất đã sử dụng gần 3.700 lít.

Ngoài ra, do năm 2022 tỉnh Bắc Kạn đã xảy nhiều ổ bệnh dịch tả lợn Châu Phi, một số ổ dịch lở mồm long móng trên gia súc và bệnh dại ở động vật nên Cục Thú y (Bộ NN-PTNT) đã xuất hàng dự trữ quốc gia hỗ trợ cho tỉnh 10.000 lít hóa chất sát trùng Han – Iodine 10%.

Toàn bộ số hóa chất sát trùng này đã được phân bổ về các huyện, thành phố, các địa phương đã phun khử khuẩn trên diện rộng để phòng dịch.

Phòng dịch ngay từ các nông hộ chăn nuôi

Khử khuẩn là giải pháp quan trọng để ngăn ngừa dịch bệnh. Ảnh: Quang Linh. 

Tại Bắc Kạn, sau 1 năm vắng bóng, gần đây đã xuất hiện ổ dịch tả lợn Châu Phi tại hai huyện Na Rì và Pác Nặm. Dù dịch chưa lây lan ra diện rộng nhưng cũng khiến người chăn nuôi lo lắng. Nhiều nông hộ đang nghe ngóng chưa dám tái đàn, một số hộ giảm quy mô chăn nuôi.

Ông Sằm Văn Hoạt, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Pác Nặm cho rằng, do đặc thù miền núi, các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ nên các biện pháp phòng dịch chưa đồng bộ, khó triển khai, nhất là các thôn vùng sâu, vùng xa.

Hiện nay, ngành chuyên môn và chính quyền địa phương đang tăng cường tuyên truyền đến bà con chăn nuôi về mức độ nguy hiểm của dịch bệnh trên đàn vật nuôi, khuyến khích chăn nuôi theo hướng an toàn.

“Khó khăn hiện nay là một số xã trên địa bàn huyện Pác Nặm chưa có thú y viên cơ sở, một số kiêm nhiệm gây ảnh hưởng đến công tác phòng dịch. Bên cạnh đó, kinh phí chi trực tiếp cho người tham gia phòng, chống dịch còn thấp”, ông Hoạt chia sẻ.

Ngoài dịch tả lợn Châu Phi, năm nay nhờ chủ động phòng dịch, đến thời điểm này tỉnh Bắc Kạn chưa xuất hiện dịch bệnh trên đàn gia súc, đàn gia cầm cũng phát triển tốt. Tiêm phòng đợt 1 vacxin lở mồm long móng và vacxin tụ huyết trùng trên đàn trâu, bò đều đạt hơn 80% kế hoạch.

Hiện, đàn gia súc (trâu, bò, ngựa) của tỉnh Bắc Kạn khoảng 63.000 con, đàn lợn 165.000 con, dê trên 21.000 con. Sáu tháng năm 2023, sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại đạt hơn 12.000 tấn.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Bộ trưởng NN&PTNT: Giá gạo tăng hàng ngày và đây là thời cơ cải thiện thu nhập rất lớn

0

Ở bối cảnh hiện tại, giá gạo tăng hàng ngày và đây là thời cơ cải thiện thu nhập rất lớn. Bên cạnh đó, chi phí trồng lúa đã giảm được 20 – 25% do ứng dụng quy trình canh tác mới, áp dụng công nghệ kỹ thuật, tiết kiệm nước, giống, phân bón

Tại phiên trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội chiều ngày 15/8, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan cho biết nông nghiệp nói chung và người trồng lúa nói riêng là đối tượng thu nhập thấp nhất, đó là điều không thể nói khác.

Bộ trưởng NN&PTNT: Giá gạo tăng hàng ngày và đây là thời cơ cải thiện thu nhập rất lớn

 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan. Ảnh: VOV

Nhưng ngành nông nghiệp có thể làm khác và thực tế đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Ở bối cảnh hiện tại, giá gạo tăng hàng ngày và đây là thời cơ cải thiện thu nhập rất lớn.  

“Ngay từ đầu nhiệm kỳ, tôi đã nhận được một tin nhắn của người nông dân rằng nếu giá lúa cao và thu nhập ổn định, họ sẵn sàng đem màn ra ngoài đồng ngủ để giữ lúa, đảm bảo an ninh lương thực. Còn nếu giá lúa thấp thì chúng tôi sẽ bỏ ruộng. Lúc đó mới là vấn đề lớn đối với an ninh lương thực và nó đã ảnh trong tâm trí tôi để làm sao cải thiện thu nhập của nông dân trồng lúa”, ông Hoan nói. 

Theo ông, cải thiện thu nhập không chỉ nhìn vào giá tăng mà còn phải tính đến việc giảm chi phí. Theo khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thông, chi phí trồng lúa đã giảm được 20 – 25% do ứng dụng quy trình canh tác mới, áp dụng công nghệ kỹ thuật, tiết kiệm nước, giống, phân bón…

“Tôi đến thăm một hợp tác xã có 85 hộ là thành viên, nhưng chỉ cần có 40 người nông dân ở ngoài đồng và họ điều khiển máy móc”, ông nói.

Về giá bán, ông cho biết nhiều người đang sợ giá bán tăng nhanh quá sẽ làm rối ngành hàng dẫn đến việc thiếu bền vững và đó là vấn đề lớn. Hiện tại, cũng đã có những “đứt gãy” nhất định hàng ngày, hàng giờ. 

Ngoài ra, người đứng đầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho rằng nếu chỉ hiểu đơn thuần là người nông dân chỉ hưởng thu nhập từ những gì họ trồng thì chưa đúng với tinh thần của Nghị quyết 19, chuyển từ tăng trưởng đơn giá trị sang tăng trưởng đa giá trị, tức là tạo ra nhiều ngành nghề khác.

Không gian trồng lúa có thể tạo ra không gian cho những ngành nghề khác. Bà con còn quỹ thời gian rất lớn vì đã áp dụng công nghệ, kỹ thuật từ khâu gieo xạ đến thu hoạch. Nếu chúng ta tạo ra được nghề để bà con tận dụng quỹ thời gian đó thì người nông dân không chỉ hưởng thành quả của riêng cây lúa.

Một biện pháp khác là liên kết các hợp tác xã để mua nguyên vật liệu trồng lúa với số lượng lớn để được chính sách giá ưu đãi. Do đó, cần khuyến khích bà con vào hợp tác xã để mua chung, bán chung, tạo ra dịch vụ chung. Nếu manh mún tự phát thì chi phí sẽ tăng lên. 

Bộ trưởng cho biết hiện người nông dân khu vực ĐBSCL thích ứng cũng rất nhanh. Điển hình như mô hình trồng lúa – nuôi tôm, lúa xen rau màu. Nhiều khi chỉ thống kê thu nhập người dân ở một khía cạnh là chưa đầy đủ. Có những người nông dân cho biết thực ra họ trồng lúa để nuôi tôm, không có lúa thì không có tôm và đây là kinh tế tuần hoàn. Người trồng lúa cũng có thể lấy rơm để trồng nấm hoặc các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.

Nguồn: VietNam Biz

Trà Vinh chuẩn bị kỹ, sẵn sàng đón cơ hội xuất khẩu dừa tươi

0

Có diện tích dừa lớn thứ 2 ở ĐBSCL (sau Bến Tre), Trà Vinh đã chuẩn bị kỹ nhằm đáp ứng yêu cầu kỹ thuật để xuất khẩu dừa tươi sang thị trường Trung Quốc.

Trà Vinh chuẩn bị kỹ, sẵn sàng đón cơ hội xuất khẩu dừa tươi

Nông dân tuyệt đối không sử dụng thuốc trừ cỏ trong canh tác dừa. Ảnh: Hồ Thảo.

Mới đây, Cục Bảo vệ thực vật đã thông tin quan trọng về việc phía Trung Quốc sẽ tổ chức kiểm tra các vùng trồng và cơ sở đóng gói dừa tươi tại Việt Nam để xem xét cho phép xuất khẩu chính ngạch mặt hàng này sang thị trường Trung Quốc. Mục tiêu của cuộc kiểm tra không chỉ dừng lại ở khía cạnh kỹ thuật, mà còn nhằm xác định nguy cơ dịch hại đối với dừa tươi, tạo tiền đề cho việc ký kết nghị định thư giữa hai quốc gia.

Dự kiến, cuộc kiểm tra này sẽ diễn ra trong tháng 8/2023 với phương thức kết hợp giữa kiểm tra trực tuyến và thực địa. Trong quá trình kiểm tra, Tổng cục Hải quan Trung Quốc sẽ tập trung vào việc kiểm soát và phòng chống sinh vật gây hại trên dừa, quy trình thu hoạch, vận chuyển và đóng gói dừa xuất khẩu.

Để đảm bảo sự chuẩn bị tốt nhất cho cuộc kiểm tra quan trọng này, Cục Bảo vệ thực vật đã đề nghị các địa phương cử cán bộ kỹ thuật để tham gia hỗ trợ việc kiểm tra trực tuyến. Đồng thời, hoàn thiện tài liệu và hồ sơ kỹ thuật liên quan đến quản lý và phòng chống sinh vật gây hại.

Tại tỉnh Trà Vinh, cây dừa đã phát triển đáng kể với diện tích khoảng 26.000ha. Đặc biệt trong số này, hơn 5.000ha đã thực hiện canh tác theo phương pháp trồng dừa hữu cơ. Cùng với việc tập trung phát triển sản xuất dừa chất lượng cao, Trà Vinh hiện xếp thứ hai về diện tích trồng dừa trong khu vực ĐBSCL, chỉ sau Bến Tre.

Hiện nay, nông dân trồng dừa ở Trà Vinh đã áp dụng nhiều quy trình kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị cho cây dừa theo hướng bền vững. Đây cũng là nền tảng thuận lợi để đáp ứng các yêu cầu về vùng trồng để xuất khẩu dừa tươi, trong đó có thị trường Trung Quốc.

Ông Phan Đức Tài, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) trồng dừa Thành Trí tại xã Huyền Hội, huyện Càng Long (Trà Vinh) cho biết, những năm gần đây, HTX đã phổ biến cho nông dân những quy trình kỹ thuật trồng dừa tiên tiến, khoa học theo sự hướng dẫn của ngành nông nghiệp Trà Vinh. 

Trên diện tích 112ha, với sự tham gia của 246 hộ nông dân, HTX đã thành công trong việc xây dựng mô hình sản xuất hiệu quả, tập trung vào hai loại dừa phổ biến là dừa xiêm xanh và dừa dâu với sản lượng khoảng 6.000 tấn dừa mỗi năm.

Với sự hỗ trợ từ Sở NN-PTNT Trà Vinh, quy trình sản xuất của HTX được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Khoảng cách 6m giữa các cây dừa và 8m giữa các hàng cây đã được duy trì để đảm bảo điều kiện tối ưu cho cây trồng. Việc đào hố và sử dụng phân bón hữu cơ từ phân bò và phân gà, phối hợp với việc ủ bằng nấm Trichoderma được HTX áp dụng. Trong giai đoạn cây còn non, phân hóa học được sử dụng, nhưng sau một năm, HTX sẽ chuyển sang sử dụng phân bón hữu cơ.

Để kiểm soát sâu bệnh, ông Tài và các thành viên HTX thường xuyên thực hiện vệ sinh vườn, bắt bọ cánh cứng. Khi có dấu hiệu của sâu bệnh gây hại, bà con trong HTX tìm đến sự hỗ trợ từ Trạm Bảo vệ thực vật của huyện. Cùng với đó, việc quản lý cỏ dại cũng được thực hiện bằng máy cắt cỏ, tuyệt đối không sử dụng thuốc trừ cỏ trên vườn dừa. Các thông tin về nhật ký sản xuất được ghi chép cẩn thận. Khi thu hoạch, bà con đều duy trì việc ghi chép số lượng để tổng hợp thông tin cho Ủy ban xã.

Trà Vinh chuẩn bị kỹ, sẵn sàng đón cơ hội xuất khẩu dừa tươi

Nông dân Trà Vinh đang đứng trước cơ hội để nâng cao giá trị cho trái dừa khi được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc. Ảnh: Hồ Thảo.

Việc tuân thủ các quy trình sản xuất dừa một cách chặt chẽ, khoa học và an toàn không chỉ sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhằm đáp ứng các yêu cầu để xuất khẩu mà còn giúp nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm dừa. 

Hiện nay, tỉnh Trà Vinh cũng đang chuẩn bị kỹ các yêu cầu về vùng trồng, cơ sở đóng gói để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của phía Trung Quốc khi kiểm tra tại địa phương. 

Ông Lê Văn Đông, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh nhấn mạnh, việc xuất khẩu dừa tươi là cơ hội lớn cho trái dừa của tỉnh, mang lại thu nhập tốt hơn cho nông dân và đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh.

Hiện tỉnh Trà Vinh có 6 cơ sở đóng gói dừa phục vụ xuất khẩu. Diện tích trồng dừa của tỉnh cũng đang tiếp tục tăng. Theo kế hoạch đến năm 2030, dự kiến diện tích dừa của Trà Vinh sẽ phát triển thêm 800ha. Công tác cấp mã vùng trồng dừa phục vụ xuất khẩu cũng đã được tỉnh triển khai và quản lý hiệu quả…

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường từ mô hình tôm – rừng

0

Mô hình tôm – rừng ở Bạc Liêu, vừa giúp người dân phát triển kinh tế ổn định, vừa đem lại hiệu quả bảo vệ môi trường thiên nhiên.

Phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường từ mô hình tôm - rừng

Nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm do tác động biến đổi khí hậu. Ảnh: Trọng Linh.

Ông Trần Minh Đấu (ấp Thuận Điền, xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải) phấn khởi cho biết: Gia đình có 2ha đang nuôi theo mô hình quảng canh kết hợp tôm – cua – cá. Sau khi tham gia dự án và hướng dẫn sử dụng sản phẩm, chế phẩm công nghệ sinh học tôi thấy hiệu quả bất ngờ. Sản phẩm giúp cải tạo môi trường nước, con tôm hình rất đẹp, đặt biệt là cho năng suất cao.

“Về hiệu quả kinh tế, dự án giúp năng suất tôm sú tăng gấp 2 lần, lợi nhuận toàn mô hình đạt trung bình 50 triệu đồng/ha, cao hơn 20 triệu đồng/ha so với mô hình truyền thống”, ông Đấu cho biết.

Cách nhà ông Đấu không xa, khi được hỏi thăm về quá trình chuyển đổi từ trống lúa sang nuôi tôm, ông Trần Văn Bảy kể lại: Khoảng năm 2000, khi chuyển đổi từ cây lúa sang nuôi tôm theo mô hình quảng canh truyền thống những năm đầu thì khá hiệu quả, người dân cũng có được cuộc sống ổn định. Tuy nhiên, những năm trở lại đây trước tác động biến đổi khí hậu, mô hình dần không còn đem lại hiệu quả, nông dân mất mùa liên tục, cuộc sống sinh kế bất đầu bị đảo lộn.

“Nhận thấy sự tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) vào thiên nhiên ngày càng rõ rệt, ông Bảy tìm hiểu và chuyển sang mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến, đồng thời sử dụng công nghệ sinh học, từ môi trường đến năng suất tôm nuôi cũng đáp ứng được kỳ vọng của nông dân”, ông Bảy khẳng định.

Phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường từ mô hình tôm - rừng

Ông Nguyễn Trung Hiếu (áo xanh), Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Bạc Liêu, kiểm tra mô hình nuôi tôm rừng tại xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải. Ảnh: Trọng Linh.

Ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Bạc Liêu đánh giá: Dự án đã góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết về tác động của biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến sản xuất và sinh kế của người dân. Ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm giảm thiểu những rủi ro đối với sinh kế của cộng đồng, góp phần ổn định và bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế và giảm nghèo tại địa phương.

Đặc biệt, thay đổi tập quán nuôi tôm phụ thuộc vào “may rủi” sang chủ động sử dụng các công nghệ sinh học, trong quá trình sản xuất để quản lý môi trường ao nuôi. Bên cạnh đó, việc sử dụng tôm giống chất lượng cao nhằm hạn chế rủi ro do dịch bệnh, tăng năng suất. Sử dụng tôm giống sạch bệnh, dùng men vi sinh, các loại khoáng để quản lý môi trường nước trong quá trình nuôi, ương tôm trước khi đưa ra vuông nuôi. Thay đổi tập quán canh tác cũ sử dụng nhiều phân vô cơ và thuốc hoá học sang sản xuất theo hướng xanh hóa, sử dụng vi sinh kết hợp sản phẩm công nghệ sinh học và trồng rừng.

Ông Hồ Thanh Tuấn, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, cho biết: Dự án đã hỗ trợ nhiều nông dân và được đánh giá cao về hiệu quả mang lại. Đặc biệt, các hộ dân sử dụng các sản phẩm, chế phẩm sinh học, giúp cải tạo nguồn nước rất đẹp, tôm sáng bóng và sạch. Trước đó, vào vụ mưa rất ít tôm, nhưng từ khi sử dụng sản phẩm trong mùa mưa nông dân thu hoạch vẫn có tôm, giúp môi trường nuôi tôm hiệu quả, tỷ lệ thành công cao hơn nhiều so với mô hình khác.

Là một trong những doanh nghiệp tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ sinh học vào nuôi tôm, bà Nguyễn Thị Hằng, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Bồ Đề cho biết: Thời gian qua, đơn vị thực hiện đề án: “Chuyên nghiệp hóa người nông dân” tại địa bàn các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Long An… Ứng dụng sản phẩm công nghệ sinh học Bồ Đề vào sản xuất nuôi tôm, xử lý môi trường nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến, tôm – lúa, tôm rừng…

Kết quả tham gia xây dựng các mô hình thuộc tiểu dự án 10, dự án ACRSL, dự án WB9, với mục tiêu hỗ trợ bà con nông dân nâng cao giá trị, năng xuất, chất lượng sản phẩm, tiến tới xây dựng thương hiệu tôm – lúa của địa phương đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU…

Dự án ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, nuôi tôm kết hợp với trồng rừng làm giảm thiểu được dịch bệnh, giảm bớt lượng phân bón hóa học, sử dụng các chế phẩm sinh học, men vi sinh để quản lý môi trường nước trong vuông tôm nên góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường và giữ cân bằng sinh thái tự nhiên.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi tôm, nuôi trồng thủy sản được xem là một giải pháp góp phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong ao, giảm thiểu tình trạng vật nuôi bị nhiễm bệnh, gia tăng sản lượng hướng đi thực tế trước bối ảnh hiện nay.

Phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường từ mô hình tôm - rừng

Ứng dụng vi sinh thay thế kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Trọng Linh.

Tôm – rừng kết hợp sinh kế bền vững

Những năm qua, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt theo từng năm và không theo quy luật nào, tác động không nhỏ đến đời sống, sản xuất của người dân tại khu vực ĐBSCL, trong đó sản xuất nông nghiệp là một trong những đối tượng chịu tác động nhiều nhất.

Cũng chính từ những tác động trên, đã giúp cho người nông dân càng thấu hiểu được sự khóc liệt, tàn phá của BĐKH đối với thiên nhiên với con người từ đời sống sinh hoạt đến sản xuất nông nghiệp. Cũng từ những tác động đó đã giúp nhiều nông dân “khai phá” ra thêm nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp vừa đem lại hiệu quả, góp phần nâng cao giá trị, giúp nông dân phát triển kinh tế ổn định, quan trọng là thích nghi với thiên nhiên, với khí hậu ngày nay.

Một trong những mô hình được chúng tôi nhắc đến là mô hình sản xuất tôm – rừng chủ yếu tập trung ở vùng Bán đảo Cà Mau. Đối với mô hình tôm – rừng giúp các hộ nuôi có lãi với lợi nhuận bình quân khoảng 70 – 80 triệu đồng/ha mỗi năm. Mô hình nuôi tôm rừng dưới tán rừng ngập mặn ngập mặn vừa đảm bảo thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, vừa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Cần có giải pháp thích hợp, nhằm tạo thu nhập cho người nuôi gắn liền với bảo vệ môi trường.

Theo ông Lưu Hoàng Ly, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Bạc Liêu, đánh giá những ưu điểm từ mô hình tôm – rừng nổi trội so với các mô hình khác là vốn đầu tư ít, không sợ nguồn nước bị ô nhiễm, không sợ nắng nóng kéo dài mà lại thu lợi nhuận khá. Đó là những lợi ích của mô hình nuôi tôm dưới tán rừng đem lại. Nuôi tôm dưới rừng ngập mặn được triển khai theo hình thức nuôi quảng canh cải tiến, nguồn nước tự nhiên, tận dụng nguồn nguyên liệu trong rừng, tôm thả với mật độ thưa không chứa kháng sinh.

Phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường từ mô hình tôm - rừng

Nông dân Trần Văn Bảy bên ao tôm vừa thu hoạch. Ảnh: Trọng Linh.

Có thể nói, với mô hình tôm – rừng giúp người dân phải ý thức hơn trong việc trồng rừng kết hợp với nuôi tôm tạo thu nhập, bảo vệ sinh thái. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, phục hồi và phát triển bền vững môi trường sinh thái rừng ngập mặn. Hình thức nuôi tôm kết hợp với việc trồng, bảo vệ rừng cho hiệu quả cao và bền vững. Mô hình này đã tác động đến suy nghĩ người dân và kích thích người dân tự đầu tư trồng lại diện tích rừng bị mất.

“Sự kết hợp giữa tôm và rừng, vừa tận dụng được điều kiện nuôi thuận lợi. Tạo sinh kế bền vững cho người dân. Mô hình này tuy không có sự đột phá về năng suất nhưng ổn định và rất ít rủi ro trong quá trình nuôi”, ông Ly đánh giá.

Ứng dụng công nghệ sinh học

Những năm qua tỉnh Bạc Liêu đã triển khai nhiều dự án, hình thành được nhiều mô hình sản xuất phù hợp với biến đổi khí hậu đem lại giá trị kinh tế và phát triển bền vững với nhiều mô hình nuôi tôm đa dạng như: Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh, mô hình tôm – lúa, mô hình tôm rừng theo chuỗi giá trị đã đem lại nhiều hiệu quả…  

Điển hình như dự án nuôi tôm sinh thái (tôm – rừng) theo chuỗi giá trị thích ứng với biến đổi khí hậu do Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT), vừa kết thúc đã đem lại hiệu quả phát triển kinh tế nông nghiệp cho nhiều hộ dân. Mô hình này đã giải mã nhiều bài toán ứng phó với biến đổi khí hậu đối với mô hình tôm rừng tại tỉnh Bạc Liêu, cũng như các tỉnh có diện tích tôm rừng tại ĐBSCL như Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng.

Tại Bạc Liêu, dự án có quy mô thực hiện 100 ha, với 100 hộ là thành viên của Hợp tác xã Thuận Điền, ấp Thuận Điền, xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. Trong đó, dự án đã sử dụng công nghệ sinh học và men vi sinh sản phẩm.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Bảo vệ đàn vật nuôi sau mưa lũ

0

Yên Bái đang khẩn trương thực hiện các biện pháp tiêu độc khử trùng, vệ sinh chuồng trại ngăn ngừa dịch bệnh phát sinh sau mưa lũ, hạn chế thiệt hại cho người chăn nuôi.

Trận lũ lịch sử vừa qua đã để lại nhiều mất mát lớn về người và tài sản ở huyện Mù Cang Chải. Hoạt động chăn nuôi của người dân cũng ảnh hưởng thiệt hại nghiêm trọng.

Theo số liệu thống kê của Ban chỉ huy PCTT – TKCN huyện, mưa lũ và sạt lở đất đá đã làm chết trên 400 con gia súc, trong đó có 18 con trâu, 10 con bò, 35 con dê và hơn 350 con lợn. Ngoài ra, còn có trên 1.300 con gia cầm các loại bị chết do lũ cuốn trôi và bị vùi lấp. Các xã có đàn vật nuôi bị thiệt hại nặng nhất là: Hồ Bốn, Lao Chải, Kim Nọi.

Hộ gia đình ông Giàng A Trống ở bản Trống Là, xã Hồ Bốn, huyện Mù Cang Chải bị mưa lũ cuốn trôi hoàn toàn về nhà ở và các tài sản khác. Đàn gia súc của gia đình ông Trống cũng bị thiệt hại nặng nề, trong đó có 4 con trâu và 3 con lợn bị chết do sạt lở đất, lũ cuốn trôi. Hiện, gia đình chỉ còn duy nhất một con trâu bị thương. Gia đình ông đang tích cực chăm sóc để duy trì tài sản duy nhất còn sót lại này.

Bảo vệ đàn vật nuôi sau mưa lũ

Đàn gia súc chính của huyện Mù Cang Chải được tiêm phòng vacxin bệnh lở mồm long móng và viêm da nổi cục. Ảnh: Thanh Tiến.

Mưa lũ đã làm xác động vật chết và nguồn nước thải chăn nuôi tràn ra môi trường, cùng với thời tiết thất thường là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh phát sinh. Không chỉ thế, huyện Mù Cang Chải còn là địa bàn đã từng xuất hiện các loại dịch bệnh như: dịch tả lợn Châu Phi, dịch lở mồm long móng ở gia súc, dịch bệnh cúm gia cầm… chính vì vậy, ngay sau mưa lũ, công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi được phòng chuyên môn của huyện nhanh chóng triển khai.

Ông Lương Văn Thư – Trưởng phòng NN-PTNT huyện Mù Cang Chải cho biết: “Ngay khi đợt mưa lũ kết thúc, Phòng đã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ hỗ trợ và Phát triển nông nghiệp huyện và các xã, thị trấn đến cơ sở để nắm tình hình thiệt hại. Đồng thời, chỉ đạo đội ngũ thú y cơ sở tuyên truyền, hỗ trợ người chăn nuôi vệ sinh môi trường, phun khử trùng tiêu độc chuồng trại nhằm tiêu diệt các loại mầm bệnh có thể phát sinh.

Cùng đó là tổ chức thực hiện tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin cho gia súc, gia cầm theo đúng quy định. Đặc biệt, đối với các hộ chăn nuôi có gia súc, gia cầm bị chết do thiên tai, đơn vị sẽ tham mưu cho tỉnh và huyện thực hiện các biện pháp hỗ trợ người dân tái đàn để ổn định sản xuất”.

Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Yên Bái đang phối hợp với các địa phương trên địa bàn tỉnh triển khai phương án để khôi phục, tái đàn vật nuôi, giúp các hộ chăn nuôi khắc phục hậu quả, sớm ổn định cuộc sống. Đồng thời, Chi cục cử cán bộ kỹ thuật phối hợp với đơn vị chuyên môn để hướng dẫn cụ thể một số biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi sau mưa lũ.

Theo đó, cán bộ của Chi cục đã cùng cán bộ phụ trách lĩnh vực thú y của Trung tâm Dịch vụ hỗ trợ và Phát triển nông nghiệp huyện tổ chức hướng dẫn các hộ chăn nuôi thu gom, xử lý gia súc, gia cầm chết và nhanh chóng tổ chức vệ sinh tiêu độc, khử trùng toàn bộ chuồng nuôi và khu vực xung quanh.

Bảo vệ đàn vật nuôi sau mưa lũ

Người dân Mù Cang Chải không thả gia súc lên rừng trong mùa mưa lũ và chuẩn bị nguồn thức ăn xanh dự trữ. Ảnh: Thanh Tiến.

Ông Đàm Duy Đức, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Yên Bái cho biết: “Bên cạnh việc tiêm phòng các loại dịch bệnh, chúng tôi cũng khuyến cáo người chăn nuôi cần chủ động thực hiện nghiêm các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi.

Thường xuyên giám sát, theo dõi tình hình dịch bệnh trên đàn vật nuôi, nếu thấy có biểu hiện bệnh cần khẩn trương báo cho cán bộ thú y cơ sở biết để kịp thời xử lý. Tăng khẩu phần ăn cho đàn vật nuôi để gia tăng sức đề kháng… Đây là được xem giải pháp phòng bệnh hiệu quả và quan trọng nhất trong thời điểm này.

Thời gian qua, huyện Mù Cang Chải đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu giống vật nuôi để nâng cao hiệu quả sản xuất, thực hiện sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa kết hợp với phát triển những sản phẩm, đối tượng vật nuôi có tiềm năng và lợi thế của huyện.

Từ năm 2020 đến nay huyện đã hiện hỗ trợ cho 298 cơ sở chăn nuôi theo hướng hàng hóa hoặc đặc sản hữu cơ. Hiện tổng đàn gia súc chính của huyện ước đạt 83.500 con, đàn gia cầm ước đạt 225.000 con. 

Hiện nay, mới chỉ mới bắt đầu vào mùa mưa bão ở khu vực phía Bắc, dự báo tình hình mưa bão sẽ còn tiếp diễn và thời tiết mưa nhiều gây ẩm ướt, tạo điều kiện thuận lợi cho các bệnh dịch trên đàn vật nuôi phát sinh. Trong đó, loại bệnh dễ phát sinh nhất như bệnh dịch tả lợn Châu Phi, tụ huyết trùng, lở mồm long móng và cúm gia cầm. Do vậy, để phòng ngừa dịch bệnh, bà con nông dân cần chủ động tiêm phòng vacxin các bệnh cho đàn vật nuôi, đồng thời, thực hiện chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Bộ Công Thương yêu cầu tăng cường xúc tiến thương mại và bình ổn mặt hàng gạo

0

Mới đây, Bộ Công Thương ban hành chỉ thị về tăng cường công tác thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu gạo và bình ổn thị trường trong nước trong giai đoạn hiện nay.

Thời gian vừa qua, tình hình thương mại lương thực toàn cầu diễn biến phức tạp, khó lường do tác động bởi nhiều yếu tố như lệnh cấm xuất khẩu gạo tại một số nước (Ấn Độ, UAE, Nga); hiện tượng El Nino gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực, ngũ cốc tại nhiều khu vực; diễn biến địa chính trị còn phức tạp (Nga tuyên bố rút khỏi thỏa thuận ngũ cốc Biển Đen),… 

Điều này ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Công Thương mới đây yêu cầu Tổng Cục Quản lý thị trường theo dõi sát tình hình giá gạo, kiểm tra, kiểm soát các cơ sở kinh doanh, đầu mối bán buôn, bán lẻ,…nhằm kiểm soát nguồn cung, giá bán, ngăn chặn các vi phạm về niêm yết giá, đầu cơ, găm hàng, định giá bất hợp lý đối với mặt hàng gạo. 

Tăng cường kiểm tra, ngăn chặn việc vận chuyển, kinh doanh gạo không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm.

Với Cục Xuất nhập khẩu, Bộ yêu cầu khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày 15/8/2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, trình Chính phủ trong Quý III năm 2023.

Theo dõi tình hình sản xuất lúa gạo, diễn biến cung cầu, giá cả thị trường thóc, gạo nội địa; tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ công tác điều hành xuất khẩu gạo trong tình hình mới. Kiểm tra thi hành pháp luật về kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định số 107/2018/NĐ-CP.

Chủ trì, phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại, và các bên liên quan xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm gạo để củng cố, mở rộng thị trường.

Chủ trì làm việc với Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo để nắm bắt thông tin, hỗ trợ hướng dẫn, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, khả năng đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu, kịp thời cập nhật tình hình xuất khẩu gạo và hỗ trợ thương nhân xử lý vướng mắc trong trường hợp cần thiết.

Bộ trưởng Công Thương yêu cầu Cục Xúc tiến thương mại bố trí kinh phí cho các chương trình xúc tiến thương mại gạo trong Chương trình cấp quốc gia về Xúc tiến thương mại hàng năm, nhất là các chương trình xúc tiến thương mại gạo phù hợp với tín hiệu thị trường và tạo điều kiện để thương nhân khai thác hiệu quả lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà nước ta là thành viên nhằm đa dạng hóa, chiếm lĩnh các thị trường mới, tiềm năng và nâng cao sức cạnh tranh cho ngành hàng gạo Việt Nam.

Cục Phòng vệ thương mại triển khai các hoạt động cảnh báo nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và trợ giúp thương nhân xuất khẩu gạo trong trường hợp bị nước nhập khẩu điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Vụ Chính sách thương mại đa biên: Trong quá trình đàm phán tại các diễn đàn song phương, đa phương, phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu và các Vụ Thị trường ngoài nước đàm phán về mở cửa thị trường và các biện pháp phi thuế quan đối với mặt hàng gạo để gỡ bỏ các rào cản, tạo thuận lợi cho xuất khẩu gạo của Việt Nam. Đồng thời, tận dụng tiến trình rà soát các Hiệp định đã được đưa vào thực thi để đề nghị các đối tác mở cửa thêm, gia tăng hạn ngạch thuế quan dành cho sản phẩm gạo của Việt Nam.

Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ ngành gạo tận dụng hiệu quả các FTA; kịp thời thông tin về những thuận lợi, khó khăn và các vấn đề cần lưu ý đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam vào các thị trường mà Việt Nam đã ký kết, tham gia các Hiệp định song phương và đa phương.

Vụ Pháp chế phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, trình Chính phủ theo đúng chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ.

Phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu trong công tác triển khai kiểm tra thi hành pháp luật về kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định.

Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ theo dõi tình hình thực hiện và kịp thời xúc tiến đàm phán gia hạn các Bản Ghi nhớ về thương mại gạo đã ký; tăng cường tìm kiếm cơ hội ký kết thỏa thuận về thương mại gạo với các thị trường mới, thị trường tiềm năng. Chủ trì theo dõi, hỗ trợ doanh nghiệp đầu mối được chỉ định thực hiện Bản Ghi nhớ thương mại gạo và các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo khác tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy xuất khẩu gạo tại các thị trường…

Vụ Thị trường trong nước theo dõi sát tình hình thị trường, có phương án chuẩn bị nguồn cung, đảm bảo chất lượng và cân đối cung cầu mặt hàng gạo tại thị trường trong nước, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của người dân, góp phần bình ổn giá gạo nói riêng và giá lương thực nói chung, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Hiệp hội Lương thực Việt Nam theo dõi sát diễn biến tình hình thị trường gạo thế giới, dự báo nhu cầu nhập khẩu của các thị trường; diễn biến tình hình thị trường trong nước (giá thóc, gạo nội địa, lượng gạo tồn kho,…) , chủ động phối hợp với đơn vị chức năng của Bộ Công Thương đề xuất các biện pháp xử lý đảm bảo an ninh lương thực và hiệu quả trong xuất khẩu gạo…

Các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất và duy trì mức dự trữ lưu thông tối thiểu theo quy định.

Chủ động theo dõi sát tình hình thương mại gạo thế giới, động thái của các nước xuất khẩu, nhu cầu tiêu thụ của các nước nhập khẩu, trao đổi cùng Hiệp hội để xây dựng phương án tổ chức sản xuất, giao dịch, đàm phán đảm bảo hiệu quả xuất khẩu.

H.Mĩ

Nguồn: VietNam Biz

Giá lúa gạo hôm nay 15/8: Tiếp tục tăng ở nhiều mặt hàng

0

Theo khảo sát, giá lúa gạo hôm nay (15/8) tăng 100 – 1.500 đồng/kg. Nông dân cần tuân thủ đúng lịch gieo sạ lúa Thu Đông năm 2023.

Giá lúa gạo hôm nay

Tại An Giang, giá lúa hôm nay (15/8) tăng 100 – 200 đồng/kg.

Trong đó, lúa IR 50404 có giá trong khoảng 7.500 – 7.700 đồng/kg sau khi tăng 200 đồng/kg. Sau khi tăng 200 đồng/kg, lúa Đài thơm 8 có giá trong khoảng 7.800 – 8.000 đồng/kg. Lúa OM 5451 được thương lái thu mua với giá trong khoảng 7.800 – 8.000 đồng/kg sau khi tăng 200 đồng/kg. Giá lúa OM 18 tăng 100 đồng/kg lên trong khoảng 7.900 – 8.100 đồng/kg.

Các giống lúa khác đi ngang. Lúa Nàng Hoa 9 có giá trong khoảng 7.500 – 7.600 đồng/kg. Lúa Nhật có giá trong khoảng 7.800 – 8.000 đồng/kg. Giá lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 15.000 đồng/kg. Giá Riêng lúa IR 50404 (khô) ghi nhận đã ngừng khảo sát trong nhiều ngày liên tiếp.

Tương tự, giá nếp tăng 200 đồng/kg. Cụ thể, nếp Long An (tươi) có giá trong khoảng 6.900 – 7.400 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg. Cùng thời điểm khảo sát, nếp AG (tươi) được thu mua với giá trong khoảng 6.300 – 6.600 đồng/kg. Giá nếp AG (khô) có giá trong khoảng 7.400 – 7.600 đồng/kg. Giá nếp Long An (khô) được duy trì trong khoảng 7.700 – 7.900 đồng/kg. Nếp AG (tươi) tạm dừng khảo sát. Trong khi đó, giá nếp ruột trong khoảng 15.000 – 17.000 đồng/kg.

Giá lúa

ĐVT

Giá mua của thương lái (đồng)

Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

– Nếp AG (tươi)

kg

6.300 – 6.600

– Nếp Long An (tươi)

kg

6.900 – 7.400

+200

– Nếp AG (khô)

kg

7.400 – 7.600

– Nếp Long An (khô)

kg

7.700 – 7.900

– Lúa IR 50404

kg

7.500 – 7.700

+200

– Lúa Đài thơm 8

kg

7.800 – 8.000

+200

– Lúa OM 5451

kg

7.800 – 8.000

+200

– Lúa OM 18

kg

7.900 – 8.100

+100

– Nàng Hoa 9

kg

7.500 – 7.600

– Lúa Nhật

kg

7.800 – 8.000

– Lúa IR 50404 (khô)

kg

– Lúa Nàng Nhen (khô)

kg

15.000

Giá gạo

 

Giá bán tại chợ

(đồng)

Tăng (+), giảm (-) so với cuối tuần trước

– Nếp ruột

kg

15.000 – 17.000

– Gạo thường

kg

13.000 – 15.000

+1.500

– Gạo Nàng Nhen

kg

23.000

– Gạo thơm thái hạt dài

kg

18.000 – 20.000

+1.000

– Gạo thơm Jasmine

kg

17.000 – 18.000

– Gạo Hương Lài

kg

19.500

– Gạo trắng thông dụng

kg

15.500

– Gạo Nàng Hoa

kg

19.000

– Gạo Sóc thường

kg

16.000 – 17.000

– Gạo Sóc Thái

kg

18.500

– Gạo thơm Đài Loan

kg

21.000

– Gạo Nhật

kg

22.000

– Cám

kg

8.500 – 9.000

Bảng giá lúa gạo hôm nay 15/8 tại tỉnh An Giang. (Nguồn: Sở NN&PTNT An Giang)

Theo khảo sát tại chợ An Giang, giá gạo tăng tiếp 1.000 – 1.500 đồng/kg. Theo đó, giá gạo thường trong khoảng 13.000 – 15.000 đồng/kg, tăng 1.500 đồng/kg. Gạo thơm thái hạt dài có giá trong khoảng 18.000 – 20.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg. 

Trong khi đó, giá gạo thơm Jasmine trong khoảng 17.000 – 18.000 đồng/kg. Gạo Hương Lài có giá 19.500 đồng/kg. Giá gạo Sóc thường vẫn được bán ở mức 16.000 đồng/kg. Giá gạo trắng thông dụng là 15.500 đồng/kg. Giá gạo Sóc Thái được duy trì tại mức 18.500 đồng/kg. Gạo Nàng Hoa được duy trì giá bán ở mức 19.000 đồng/kg. Giá gạo thơm Đài Loan ở mức 21.000 đồng/kg. Gạo Nhật được bán với giá 22.000 đồng/kg. Gạo Nàng Nhen có giá ở mức 23.000 đồng/kg.

Cùng lúc, giá cám trong khoảng 8.500 – 9.000 đồng/kg.

Giá lúa gạo hôm nay 15/8: Tiếp tục tăng ở nhiều mặt hàng

Ảnh minh họa: Anh Thư

Long An: Nông dân cần tuân thủ đúng lịch gieo sạ lúa Thu Đông năm 2023

Hiện trên địa bàn tỉnh Long An xuống giống vụ Thu Đông 2023 với diện tích trên 38.800ha, gần bằng 68% kế hoạch, tập trung chủ yếu ở huyện Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Tân Hưng và thị xã Kiến Tường.

Để sản xuất vụ Thu Đông thắng lợi, ngành Nông nghiệp khuyến cáo các huyện vùng Đồng Tháp Mười theo dõi sát tình hình nguồn nước, mưa, lũ, hệ thống đê bao; linh hoạt điều chỉnh kế hoạch sản xuất lúa theo tình hình thực tế; vận động người dân không tiếp tục gieo sạ lúa Thu Đông ở những nơi không có đê bao an toàn. Theo đó, cần tập trung cày đất ngâm lũ chuẩn bị sản xuất vụ Đông Xuân 2023 – 2024.

Riêng các huyện phía Nam, lịch gieo sạ lúa Thu Đông và lúa mùa năm 2023 – 2024 cần tập trung xuống giống dứt điểm đợt một từ ngày 13 đến ngày 25/8, đợt hai từ ngày 10 đến ngày 20/9. 

Trong đó, ưu tiên sử dụng một số giống lúa thơm: ST, Jasmine 85, Nàng Hoa 9, VD20, Đài Thơm 8, với tỷ lệ 30%; các giống lúa chủ lực xuất khẩu: OM18, 5451, 6976,…với tỷ lệ 50 – 60%, theo báo Long An.

Anh Thư

Nguồn: VietNam Biz