1. Thị trường thế giới:
1.1. Diễn biến giá: Giá hạt tiêu ở hầu hết các nước sản xuất đều tương đối ổn định. Tuy nhiên, tính theo đồng đô la Mỹ có sự giảm nhẹ do sự suy yếu của đồng nội tệ so với đồng đô la Mỹ. Tại Việt Nam, giá tiêu tiêu đen nội địa giảm 3% trong những ngày đầu tháng và có dấu hiệu hồi phục trở lại trong những ngày cuối tháng. Giá tiêu tiêu trắng nội địa ở Việt Nam cũng tăng khoảng 4%. Tại Trung Quốc, giá hạt tiêu trắng cũng tăng nhẹ 1%. Giá hạt tiêu đen tại Kuching, Malaysia đã cho thấy xu hướng tăng so với mức giá trung bình hồi đầu tháng và đạt mức tăng trưởng 3%. Tại Cochin (Ấn Độ) giá cũng tăng nhẹ thêm 1% nhờ nhu cầu tốt, trong khi ở Lampung (Indonesia), giá tiêu đen đã được báo cáo là ổn định. Tại Sri Lanka giá giảm 1%. Giá FOB của hạt tiêu Lampung ghi nhận sự sụt giảm 4%, trong khi ở Kuching (Malaysia), giá FOB tăng 2% và các khu vực sản xuất khác, giá FOB của tiêu đen được báo cáo là ổn định. Nguồn cung sẵn có khan hiếm, thậm chí ở Việt Nam – nhà sản xuất hạt tiêu lớn nhất cũng cho thấy sự suy giảm của hàng tồn kho.
Giá hạt tiêu tại thị trường Ấn Độ những ngày đầu tháng 10 ổn định với các hoạt động hạn chế. Người mua, cả trong nước và xuất khẩu, đều đang do dự và chờ đợi sự phát hành nhiều hơn nữa tiêu bị cáo buộc nhiễm bẩn trong tuần tới nên nhu cầu vẫn tiếp tục trùng xuống. Hạt tiêu được giao dịch ở mức 647-650 Rs/kg tùy thuộc chất lượng và vùng sản xuất. Mưa liên tục tại nhiều nơi ở Kerala đã làm tăng độ ẩm và nấm mốc trong tiêu ảnh hưởng đến chất lượng của nguyên liệu. Giá tiêu bắt đầu tăng lên hôm 12/10 nhờ nguồn cung thắt chặt trong bối cảnh nhu cầu tốt. Thương nhân trong nước cũng đã tích cực mua vào và họ được cho là đã mua tiêu chất lượng cao ở mức 655 Rs/kg. Tiêu Pulpally và Bathery (Wayanad) được bán ở mức 650 Rs/kg, trong khi tiêu Rajkumari (Idukki) được bán ở mức 660 Rs/kg. Giá giao ngay đã tăng 500 Rs lên 63.800 Rs/tạ đối với tiêu xô và 66.800 Rs/tạ đối với tiêu chọn. Trên sàn giao dịch IPSTA , các hợp đồng giao tháng 10, 11 và 12 tăng nhẹ 500 Rs lên mức 67.500 Rs/tạ, 66.000 Rs/tạ và 66.000 Rs/tạ tương ứng. Giá xuất khẩu tăng lên 10.650 USD/tấn c & f sang châu Âu và 10.900 USD/tấn sang Mỹ.
1.2. Sản xuất: Mưa thất thường đã ảnh hưởng đến sản lượng hạt tiêu đen Ấn Độ. Ước tính mới nhất từ các bang sản xuất cho thấy trong vụ thu hoạch bắt đầu từ tháng 12, sản lượng sẽ giảm 50%. Ước tính của người trồng và các đại lý từ Kerala, Karnataka và Tamil Nadu cho thấy tổng sản lượng sẽ ở mức 30.000-35.000 tấn, so với 70.0000 tấn trong mùa vụ trước. Sự thiếu hụt này chắc chắn sẽ đưa thị trường lên một mức cao hơn nhiều trong năm tới. Hiện nay, giá đứng ở mức 625-650 Rs/kg; các nhà phân tích dự kiến giá sẽ tăng lên 700-750 Rs/kg. Các đại lý từ Kattappana và Sultan Battery ở Kerala (Ấn Độ) cho biết người trồng không phát hành hàng tồn kho do họ kỳ vọng giá sẽ tăng mạnh trong năm tiếp theo. Khoảng 70% tiêu thụ hạt tiêu của Ấn Độ được đáp ứng từ nguồn cung trong nước. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6 năm nay, xuất khẩu hạt tiêu của Ấn Độ đạt 10.750 tấn, trị giá 636 triệu Rs, tăng 148% về khối lượng và tăng 201% về giá trị so với cùng kỳ 2014-15.
Trên toàn cầu, tổng sản lượng hạt tiêu có thể sẽ ổn định, khi các báo cáo từ Việt Nam cho thấy sản lượng sẽ cao hơn trong năm tới. Jazvinder Singh, một nhà phân tích có cơ sở tại Việt Nam, cho biết sản lượng tại Việt Nam sẽ tăng do điều kiện thời tiết tốt hơn và diện tích trồng tăng. Theo ước tính, tổng sản lượng được dự kiến đạt mức 160.000 tấn trong năm tới, so với 140.000 tấn trong năm nay. Tại Indonesia, nơi vụ thu hoạch năm nay đã kết thúc, sản lượng ở mức khoảng 70.000 tấn, so với 52.000 tấn ở vụ trước.
2. Thị trường trong nước:
2.1 Diễn biến giá:
Giá thu mua hạt tiêu trong nước biến động giảm trong gần một tháng qua và chỉ hồi phục trở lại vào trung tuần tháng 10. Việc thị trường Ấn Độ trong những ngày gần đây trùng xuống do người mua chờ đợi việc phát hành khối lượng lớn của tiêu nhiễm bẩn ra thị trường cũng đã tác động không nhỏ đến giá tiêu trong nước của Việt Nam. Mặc dù giá tiêu liên tục giảm nhưng nguồn cung vẫn không dồi dào. Hầu hết các nông dân trồng tiêu không còn trữ nhiều vào thời điểm này, nhu cầu mua hạt tiêu vẫn nhiều. Hiện giá thu mua tiêu tại các tỉnh trồng tiêu trọng điểm Gia Lai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đắk Lắk, Bình Phước lần lượt ở mức 185000 đ/kg, 191.000 đ/kg, 187.000 đ/kg, 189.000 đ/kg, trung bình giảm 7.000 đ/kg so với tháng trước.
2.2 Sản xuất:
Năm 2015, tính đến thời điểm này, cả nước mới chỉ có khoảng 7.000 ha hồ tiêu bị nhiễm bệnh, so với năm 2014 là khoảng 12.000 ha. Đây là cố gắng lớn của các nhà khoa học, nhà quản lý và người trồng tiêu.
Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn là mối lo thường trực của các nhà vườn và còn rất nhiều mối lo khác nữa xung quanh việc “vỡ” diện tích hồ tiêu.
Trước sự bùng phát diện tích hồ tiêu một cách khó kiểm soát thì hệ lụy lớn nhất và trước mắt mà người trồng tiêu phải gánh chịu, đó là dịch bệnh diễn ra trên các vườn tiêu.
Mới đây, Bộ NN-PTNT đã có thông báo, sản phẩm tiêu đen của nước ta đang có xu hướng gia tăng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu. Trong bối cảnh đó, các nhà nhập khẩu lớn từ châu Âu và Hoa Kỳ cảnh báo: Nếu tình trạng này không được khắc phục, sẽ tạm ngừng thu mua sản phẩm hồ tiêu của nước ta. Và nếu điều này xảy ra thì không những giá hồ tiêu bị ảnh hưởng, mà uy tín hồ tiêu Việt Nam cũng bị sụt giảm theo.
Do đó, điều cần thiết lúc này là chính nông dân – những chủ vườn tiêu phải thay đổi cách thức tổ chức sản xuất, dưới sự hướng dẫn của các nhà chuyên môn. Một hệ lụy khác cũng không kém phần nguy hiểm xuất phát từ việc ồ ạt mở rộng diện tích hồ tiêu, đó là vấn đề phá rừng lấy đất trồng tiêu. Ở Tây Nguyên, khó có thể thống kê một cách chính xác rằng trong mấy năm gần đây, đã có bao nhiêu diện tích rừng bị phá để nhường đất cho những vườn hồ tiêu mới trồng.
2.3 Xuất nhập khẩu:
Mặt hàng tiêu dù giảm mạnh về sản lượng nhưng giá trị xuất khẩu lại giảm không đáng kể. Cụ thể, khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 9 năm 2015 ước đạt 7 nghìn tấn, với giá trị đạt 66 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 9 tháng đầu năm 2015 lên 110 nghìn tấn với giá trị 1,04 tỷ USD, giảm 21,2% về khối lượng và giảm 1,3% về giá trị. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu đạt 9.420 USD/tấn, tăng 26,35% so với cùng kỳ năm 2014. Các thị trường xuất khẩu tiêu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất và Singapore với 37,89% thị phần. Các thị trường có giá trị tăng mạnh là Đức (35,27%), Hàn Quốc (53,34%), Tây Ban Nha (27,79%) và Anh (24,23%).
Ngày 30/9/2015 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Quyết định 1684/QĐ- TTg, phê duyệt “Chiến lược Hội nhập kinh tế Quốc tế ngành Nông nghiệp và PTNT, tập trung vào 11 ngành hàng nông sản lớn. Ngành hàng Hồ tiêu được nằm trong danh sách này. Đó cũng là thuận lợi nhưng cũng đòi hỏi sự bứt phá mạnh hơn về chất trong thời gian tới đối với ngành hồ tiêu Việt Nam.
Theo đó, Chính phủ coi Ngành hàng hồ tiêu là ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Việt Nam liên tục là nước dẫn đầu về xuất khẩu hạt tiêu trên thị trường thế giới. EU, Hoa Kỳ và Trung Đông là những thị trường xuất khẩu chính của ngành hàng tiêu Việt Nam.
Nguyễn Vân Anh
Tài liệu tham khảo:
– Báo cáo thống kê của Bộ Nông nghiệp và PTNT
– nmce.com
– thehindubusinessline.com
– tintucnongnghiep.com, giatieu.com, tincaphe.vn, vinanet.com.vn







![[Sách] Bảo quản Khoai Tây Thương Phẩm Bảo quản Khoai Tây Thương Phẩm](https://i0.wp.com/nghenong.com/wp-content/uploads/2025/11/bao-quan-khoai-tay-thuong-pham.jpg?resize=100%2C75&ssl=1)




![[Sách] 100 Câu hỏi & đáp về kỹ thuật cà phê 100 câu hỏi & đáp về kỹ thuật cà phê](https://i0.wp.com/nghenong.com/wp-content/uploads/2025/11/100-cau-hoi-dap-ve-ky-thuat-ca-phe.jpg?resize=100%2C75&ssl=1)



