I. MỘT VÀI NÉT CHUNG VỀ SẢN XUẤT CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1. LỊCH SỬ NGHỀ TRỒNG CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM
Cây cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1857, trước hết là ở một số nhà thờ tại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum… Song mãi tới đầu thế kỷ hai mươi trở đi thì cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ – Nghệ An và sau đó là ở Đắc Lắc và Lâm Đồng, nhưng tổng diện tích không quá vài ngàn hecta. Sau cách mạng tháng 8, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên 10.000 HA VÀO NẮM 1963 – 1964. ở miền Nam trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha. Tại Đắc Lắc có khoảng 7.000 ha, Lâm Đồng 1.700 ha và Đồng Nai 1.100 ha. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 – 600 kg/ha, có một số điển hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Hạn chế lớn nhất đối với việc trồng cà phê chè ở miền Bắc là tác hại của sâu bệnh. Sâu đục thân (Xylotrechus quadripes) và bệnh gỉ sắt cà phê (Hemileia vastatrix), là hai đối tượng sâu bệnh hại nguy hiểm nhất. Do điều kiện sinh thái không phù hợp, đặc biệt là có một mùa đông giá lạnh kéo dài, vì vậy cây cà phê vối khó có khả năng phát triển ở miền Bắc, nhiều vùng đã trồng cà phê vối sau phải hủy bỏ vì kém hiệu quả.
Diện tích trồng cà phê ở miềm Nam trước ngày giải phóng chủ yếu là giống cà phê vối (Canephora robusta), một số diện tích nhỏ cà phê chè được trồng ở Lâm Đồng. Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt trên dưới 1 tấn/ha, ở một số đồn điền có quy mô vừa và nhỏ cũng đã đạt năng suất từ 2 – 3 tấn/ha. Ngày nay trong cơ chế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật cho nên năng suất đã tăng lên rất nhanh. Tính đến cuối năm 1994, tổng số diện tích cà phê ở nước ta đã có khoảng 150.000 ha và sản lượng vụ năm 1993/1994 đã đạt trên 150.000 tấn. Vụ cà phê năm 1994/1995 ước đạt 180.000 tấn. Năng suất bình quân trên diện tích cà phê kinh doanh đã đạt trên 1,2 tấn/ha, nhiều nông trường có quy mô từ 400 – 1500 ha đã đạt năng suất bình quân từ 2,5 – 3 tấn/ha. nhiều vùng liền khoảnh rộng tới vài trăm hecta, nhiều chủ hộ nhận khoán, nhiều vườn cà phê tư nhân đã đạt được năng suất từ 4 – 6 tấn/ha, cá biệt có một số điển hình đạt từ 8 – 10 tấn/ha. Từ một vài năm gần đây cây cà phê chè đã được phát triển mở rộng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc với tổng diện tích khoảng 7.000 ha bao gồm: Sơn La, Tuyên Quang, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Lai Châu, Lạng Sơn, Hòa Bình, Yên Bái v.v… Do sử dụng giống mới có tên là Catimor nên đã hạn chế được tác hại của sâu bệnh, một số điển hình đã cho năng suất đạt từ 1 – 2 tấn/ha. Tại Viện nghiên cứu cà phê đã đạt được trên 3 tấn/ha. Theo chủ trương của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp mục tiêu phát triển cà phê ở Việt Nam tới năm sau 2000 là : Có diện tích trên 200.000 ha và tổng sản lượng hàng năm đạt 250.000 tấn. Cà phê Việt Nam sẽ là một mặt hàng nông sản quan trọng trên thị trường thế giới và đem về nguồn ngoại tệ xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân.
2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ PHÊ TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới hiện nay có 75 nước trồng cà phê với diện tích trên 10 triệu hecta và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 6 triệu tấn. Năng suất bình quân chưa vượt quá 6 tạ nhân/ha. Trong đó ở châu Phi có 28 nước năng suất bình quân không vượt quá 4 tạ nhân/ha. Nam Mỹ đạt dưới 6 tạ nhân/ha. Bốn nước có diện tích cà phê lớn nhất đó là: Brazil trên 3 triệu hecta chiếm 25% sản lượng cà phê thế giới, CÔTE D’LVOIRE (CHẤU PHI), INDONESIA (CHẤU Á) mỗi nước khoảng 1 triệu hecta và Côlômbia có gần 1 triệu hecta với sản lượng hàng năm đạt trên dưới 700 ngàn tấn. Do áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật mới như giống mới và mật độ trồng dày nên đã có hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt trên 1 tấn/ha. Điển hình có Costa Rica ở Trung Mỹ với diện tích cà phê chè là 85.000 ha nhưng đã đạt năng suất bình quân trên 1.400 kg/ha.
Do sự xuất hiện và gây tác hại của bệnh gỉ sắt cà phê tại nhiều nước Trung và Nam Mỹ từ năm 1970 trở lại đây đã gây thêm những khó khăn và tốn kém cho nghề trồng cà phê ở khu vực này. Cà phê chè hiện nay vẫn chiếm 70% sản lượng của thế giới. Diện tích cà phê chè được trồng tập trung chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ, một số nước ở Đông Phi như: Kenya, Cameroon, Ethiopie, Tanzania và một phần ở châu Á như: Indonesia, Ấn Độ, Philippines.
Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại đây. Tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải hủy bỏ bớt diện tích cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả. Năm 1994 do những đợt sương muối và sau đó là hạn hán diễn ra ở Brazil, vì vậy đã làm cho sản lượng cà phê của nước này giảm xuống gần 50%, do đó đã góp phần làm cho giá cà phê tăng vọt, có lợi cho những người xuất khẩu cà phê trê thế giới.
Cà phê là một loại nước uống cao cấp, nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng vẫn không ngừng tăng lên, chưa có những sản phẩm nhân tạo được chấp nhận để thay thế cho cà phê, vì vậy việc trồng, xuất khẩu, nhập khẩu loại hàng hóa đặc biệt này vẫn có một ý nghĩa kinh tế lớn đối với nhiều nước.Vấn đề quan trọng cần có nhận thức đầy đủ là: sản phẩm cà phê đem ra thị trường phải đảm bảo chất lượng. Trong cơ chế thị trường: Tiền nào – của nấy, lại càng đúng với mặt hàng CÀ PHÊ.
3. MỘT SỐ TIẾN BỘ KỸ THUẬT MỚI TRONG NGHỀ TRỒNG VÀ SỬ DỤNG CÀPHÊ TRÊN THẾ GIỚI
* Sử dụng các giống mới qua quá trình tuyển, chọn lọc, lai tạo mang được các đặc tính tốt về: khả năng kháng sâu bệnh, dạng hình phù hợp, chất lượng tốt, cho năng suất cao.
* Áp dụng phương pháp nhân giống vô tính bằng kỹ thuật giâm cành, nuôi cấy mô, tạo ra các vườn cà phê thuần chủng, năng suất cao.
* Áp dụng kỹ thuật trồng dày, tăng mật độ cây trồng trên một đơn vị diện tích, cho phép đạt năng suất cao, rút ngắn nhiệm kỳ kinh tế, đưa lại hiệu quả lớn.
* Bón phân dựa trên kết quả chẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng khoáng của cây trồng thông qua biện pháp phân tích lá và đất để hướng dẫn sử dụng các loại phân và liều lượng phù hợp theo nhu cầu của cây trồng.
* Sử dụng các loại chế phẩm bảo vệ thực vật mới, ít độc đối với người, giảm sự ô nhiễm đối với môi trường.
* Sử dụng các tiến bộ kỹ thuật của ngành điện tử để chế biến và phân loại cà phê, tạo ra nhiều dạng thành phẩm có khả năng bảo quản giữ chất lượng được lâu hơn.
* Sử dụng các chế phẩm kích thích sinh trưởng làm cho quá trình ra hoa, đậu quả và quả chín tập trung.
* Sử dụng những cây che bóng mới, phù hợp với nhu cầu chiếu sáng theo yêu cầu sinh lý của cây cà phê
II. MỘT SỐ YÊU CẦU CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH VÀ SINH LÝ CÙA CÂY CÀ PHÊ
1. GIỐNG CÀ PHÊ
Có ba loại gống cà phê:
Cà phê chè: Coffea arabica L.
Cà phê vối: Coffea canephora.
Cà phê mít: Coffea excelsa.
Mỗi giống có nhiều chủng loại khác nhau như trong cà phê chè có các chủng: Typica, Bourbon, Moka, Mundonovo, Caturra, Catuai, Catimor.v.v… Trong cà phê vối có rất nhiều chủng loại khác nhau về kích thước lá, độ gợn sóng của phiến lá, màu sắc lá và quả, hình dạng quả, song chủng loại được trồng rất phổ biến ở nhiều nước là Robusta. Đặc trưng của cà phê Typica là đọt non có màu nâu tím, còn các chủng khác như Bourbon, Mundonovo… thì đọt non có màu xanh. Tùy theo từng giống mà chúng đòi hỏi các điều kiện ngoại cảnh khác nhau, cho nên việc bố trí cơ cấu giống vào trồng trong một vùng phải dựa trên các yêu cầu riêng của chúng. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả của từng giống.
2. CÁC YÊU CẦU VỀ ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH
2.1. Đất đai
Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó đất ba-zan là một trong những loại đất lý tưởng để trồng cà phê, vì các đặc điểm lý hóa tính tốt, và tầng dày của loại đất này. Yêu cầu cơ bản của đất trồng cà phê là có tầng sâu từ 70 cm trở lên, có độ thoát nước tốt (không bị úng, lầy). Các loại đất thường thấy ở Việt Nam ở trên các vùng cao như granit, sa phiến thạch, phù sa cổ, gờ nai, đá vôi, dốc tụ… đều trồng được cà phê. Ở cà phê vườn có khả năng trồng được cả ở nơi có đá lộ đầu, ở những nơi đất dốc vẫn trồng được cà phê nếu làm tốt công trình chống xói mòn. Dù trồng ở trên loại đất nào nhưng vai trò của con người có tính quyết định trong việc duy trì, bảo vệ nâng cao độ phì nhiêu của đất. Ngay cả trên đất ba-zan, nếu cà phê không được chăm sóc tốt vẫn dẫn tới hiện tượng cây mọc còi cọc, năng suất thấp. Ngược lại ở những nơi không phải là đất ba-zan nếu đảm bảo được đủ lượng phân hữu cơ, vô cơ, giải quyết tốt cây đậu đỗ, phân xanh trồng xen, tủ gốc tốt cùng các biện pháp thâm canh tổng hợp khác như tưới nước vẫn có khả năng tạo nên các vườn cà phê có năng suất cao.
2.2. Khí hậu
Không phải vùng nào ở trên trái đất cũng trồng được cà phê. Ngoài yếu tố đất đai, cây cà phê còn đòi hỏi một số yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh sáng, gió. Vì vậy, khi chọn vùng trồng cà phê phải chú ý tới các yếu tố rất quan trọng này.
– Nhiệt độ: Nói chung trong phạm vi nhiệt độ tương đối rộng từ 50C đến 320C cây cà phê vẫn có khả năng tồn tại, sinh trưởng và phát triển. Song phạm vi nhiệt độ phù hợp đối với từng giống cà phê có khác nhau.
– Cà phê chè ưa nơi mát và hơi lạnh. Phạm vi thích hợp từ 180C – 250C, thích hợp nhất từ 20 – 220C. Do yêu cầu về nhiệt độ như vậy nên cà phê chè thường được trồng ở miền núi có độ cao từ 600 – 2.500 m (nguyên quán cà phê chè là ở Ethiopie nơi có độ cao trên dưới 2.000 m). Các nước trồng cà phê chè có phẩm vị thơm ngon như: Kenya, Tanzania, Ethiopie, Côlombia thường được trồng ở nơi có độ cao từ 800 m trở lên. Ngược lại cà phê vối thích ở nơi nóng ẩm. Phạm vi nhiệt độ thích hợp từ 22 – 260C, song giới hạn nhiệt độ thích hợp nhất từ 24 – 260C. Nhiệt độ giảm xuống tới 00C làm thui cháy các đọt non, nếu kéo dài làm cháy cả lá già đặc biệt là vùng hay xuất hiện sương muối. Gió rét và gió nóng đều bất lợi đối với sinh trưởng của cây cà phê.
– Lượng mưa: Lượng mưa cần thiết đối với cây cà phê chè thường 1.300 mm – 1.900 mm, còn đối với cà phê vối cần từ 1.300 – 2.500 mm. Nếu lượng mưa được phân bổ tương đối đều trong năm có một mùa khô hạn ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch, nhiệt độ thấp thì thuận lợi cho quá trình phân hóa mầm hoa của cây cà phê. Đối với cà phê mít có yêu cầu về nhiệt độ và lượng mưa tương tự như cà phê vối. Song cây cà phê mít có bộ rễ ăn sâu, vì vậy có thể trồng ở những nơi có lượng mưa ít hơn.
Nhìn chung, ở nước ta lượng mưa phân bố không đều. Lượng mưa tập trung khoảng 70 – 80% vào trong mùa mưa gây ra hiện tượng thừa nước. Mùa khô thường kéo dài từ 3 – 5 tháng, nhưng lượng nước mưa chỉ chiếm từ 20 – 30%, do vậy có nhiều nơi cây cà phê thiếu nước nghiêm trọng đặc biệt là các tỉnh ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Để khắc phục hiện tượng này, vấn đề tủ gốc giữ ẩm, đai rừng phòng hộ, cây che bóng và tưới nước có một ý nghĩa quan trọng.
– Ấm độ: Ẩm độ của không khí phải trên 70% mới thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây cà phê. Đặc biệt là giai đoạn cà phê nở hoa cần phải có ẩm độ cao, do đó tưới nước bằng biện pháp phun mưa rất thích hợp cho quá trình nở hoa của cà phê. Ẩm độ quá thấp cộng với điều kiện khô hạn, nhiệt độ cao dẫn tới hậu quả làm cho các mầm, nụ hoa bị thui, quả non bị rụng.
– Ánh sáng: Cà phê chè là loại cây thích ánh sáng tán xạ (nguồn gốc mọc trong rừng thưa tại châu Phi), ánh sáng trực xạ làm cho cây bị kích thích ra hoa quá độ dẫn tới hiện tượng khô cành, khô quả, vườn cây xuống dốc nhanh, ánh sáng tán xạ có tác dụng điều hòa sự ra hoa, phù hợp với cơ chế quang hợp tạo thành và tích lũy chất hữu cơ có lợi cho cây cà phê, giữ cho vườn cây lâu bền, năng suất ổn định. Cà phê vối là cây thích ánh sáng trực xạ yếu (nguyên quán cà phê vối mọc rải rác ven bìa RỪNG Ở CHẤU PHI). Ở những nơi có ánh sáng trực xạ với cường độ mạnh thì cây cà phê vối cần lượng cây che bóng để điều hòa ánh sáng, điều hòa quá trình quang hợp của vườn cây.
– Gió: Gió lạnh, gió nóng, gió khô đều có hại đến sinh trưởng của cây cà phê. Gió quá mạnh làm cho lá bị rách, rụng lá, các lá non bị thui đen, gió nóng làm cho lá bị khô héo. Gió làm tăng nhanh quá trình bốc thoát hơi nước của cây và đất đặc biệt là trong mùa khô. Vì vậy cần giải quyết trồng tốt hệ đai rừng chắn gió chính và phụ; cây che bóng để hạn chế tác hại của gió. Đai rừng chắn gió và cây che bóng còn có tác dụng hạn chế hình thành và tác hại của sương muối, ở những vùng có gió nóng, đai rừng còn có tác dụng điều hòa nhiệt độ trong lô trồng.
3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ SINH LÝ VÀ THỰC VẬT CỦA CÂY CÀ PHÊ
– Nở hoa: Thường cuối vụ thu hoạch cây đã có quá trình phân hóa mầm non. Mầm hoa tiếp tục phát triển vào sau vụ thu hoạch. Nếu mầm hoa phát triển đã hoàn chỉnh (dạng mỏ sẻ) khi được tưới nước hay có lượng mưa trên dưới 15 mm thì sau đó 5 – 7 ngày hoa sẽ nở, thời gian này có thể dài hơn nếu trước đó hoa chưa phát triển đầy đủ. Cà phê chè tự thụ phấn (trên dưới 90%) còn cà phê vối thì thụ phấn chéo (dị hoa thụ phấn). Do đặc điểm thụ phấn chéo của cà phê vối vì vậy khi chúng ta sử dụng hạt cà phê vối để làm giống thì khó tạo ra một vườn cà phê thuần chủng. Ngày nay một số nước đã trồng cà phê vối bằng các cành giâm thông qua biện pháp nhân giống vô tính. Ưu điểm của nhân giống vô tính là tạo ra các vườn cà phê vối thuần chủng, mang các đặc điểm tốt của các cây mẹ đã được chọn lọc như: năng suất cao, phẩm chất tốt, cỡ hạt to, chịu hạn, chống chịu sâu bệnh… Ở nước ta biện pháp này đang được thử nghiệm trên diện tích rộng trong sản xuất.
Thời gian mang quả trên cây từ lúc bắt đầu hình thành quả non đến khi quả chín:
+ Cà phê chè: từ 7 – 8 tháng.
+ Cà phê vối: từ 9 – 10 tháng.
– Nảy mầm của hạt: Hạt giống sau khi chế biến nếu được ngâm cho bão hòa nước (từ 20 – 24 giờ) sau đem ủ giữ nhiệt độ từ 30 – 32oC thì sau đó từ 3 – 5 ngày đã nhú mầm khi để cả vỏ trấu hoặc bóc vỏ trấu. Nếu bóc vỏ trấu thì thời gian nảy mầm nhanh hơn so với không bóc vỏ.
– Độ ẩm cây héo của cây cà phê:
Độ ẩm cây héo của cây cà phê là giới hạn độ ẩm trong đất, cây không còn khả năng hút được nước đưa đến hiện tượng làm cho cây cà phê bị héo.
* Độ ẩm cây héo đối với cây cà phê con trong vườn ương 26 – 27%.
* Độ ẩm cây héo đối với cây cà phê tuổi kinh doanh: 28 – 30%.
* Giới hạn độ ẩm trong đất cần phải tưới nước cho cà phê tuổi kinh doanh: 30 – 34%.
– Phân bố tầng rễ: Bề mặt của bộ rễ nói chung phát triển ra tới mép ngoài của tán lá. Lượng rễ phát triển tập trung chủ yếu ở tầng đất canh tác sâu từ 0 – 30 cm, chiếm tới 85% trọng lượng và thể tích của bộ rễ. Rễ cọc (rễ chính) có khả năng xuyên sâu tới trên dưới một mét, cà phê mít rễ cọc có khả năng xuống sâu hơn. Sự phát triển và phân bố của bộ rễ cà phê có quan hệ tới kỹ thuật trồng mới (trồng âm để đưa bộ rễ xuống sâu dưới mặt đất tránh vùng khô hạn ở lớp đất mặt), kỹ thuật bón phân (bón phân theo mép ngoài của tán, kỹ thuật tủ gốc giữ ẩm và tưới nước).
– Sự phát triển cành lá:
Trong điều kiện thích hợp để phát triển được thêm một cặp cành hay một đôi lá phải cần một thời gian từ 25 – 30 ngày. Cây con sau khi trồng được một năm có khả năng phát triển từ 12 – 14 cặp cành, sau khi trồng 18 tháng cây đã đủ chiều cao để hãm ngọn (những nơi chăm sóc tốt khả năng sinh trưởng này còn lớn hơn). Sự ra cành của cà phê trên thân theo quy luật đối xứng (mỗi một đốt có một cặp cành đối xứng ) cá biệt có những chủng cà phê chè tại một đốt trên thân cho ba cành phân bố đều quanh thân.
Tùy theo từng chủng, từng vùng sinh thái mà trên cành cấp một có phát triển các cành cấp hai. Nếu được cắt tỉa hợp lý thì cây cà phê vối có nhiều hệ cành quả thứ cấp. Cấu tạo của một cây cà phê có những bộ phận chủ yếu sau đây (hình 2):
Cành cấp một mọc trực tiếp từ thân, thường thẳng góc với thân hoặc tạo thành một góc nhỏ hơn 900 tùy từng giống và chủng cà phê. Các cành thứ cấp phát triển trên cành cấp 1, cành cấp 2, cấp 3, cấp 4 v.v… Chồi vượt được mọc từ thân và song song với thân. Nếu uốn thân cũng tạo thành các chồi vượt mọc thẳng góc với thân.
Từ các chồi vượt có thể giữ lại để tạo thành các thân mới trong kỹ thuật nuôi nhiều thân trên một gốc hay một thân bổ sung thay thế các chồi cũ già cỗi. việc nắm chắc quy luật ra cành của cà phê có một ý nghĩa đặc biệt để điều khiển chúng phục vụ cho kỹ thuật tạo hình. Trong thực tế ở Việt Nam, cà phê vối có khả năng phát triển tới cành cấp 8 (hình 3).
Cần chú ý tới quy luật ra quả của cà phê vối khác với cà phê chè. Các đốt của cà phê vối sau khi đã ra quả thì năm sau ở các đốt đó không còn có hoa, quả nữa. ngược lại ở cà phê chè tại những đốt đã cho quả năm trước thì năm sau lại tiếp tục cho hoa quả (hiện tượng lại hoa trên đốt cũ). Nắm được quy luật này để có biện pháp cắt tỉa, điều khiển sự phát triển cành quả thứ cấp của cà phê vối từ trên những cành đã cho quả từ những năm trước
III. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CÂY CÀ PHÊ
1. Chọn lọc giống
Sử dụng các loại giống đã được nhà nước công nhận do cơ sở được phân công sản xuất cung cấp giống. Tiêu chuẩn vườn chọn làm vườn giống, cây chọn làm giống, quả giống đã được Bộ Nông nghiệp ban hành theo tiêu chuẩn cấp ngành. Nguyên tắc chung là sử dụng các vườn tốt có năng suất cao, cây tốt và quả tốt để chế biến làm giống.Trong tương lai việc sử dụng giống bằng con đường vô tính (giâm cành) sẽ thay thế dần việc sử dụng giống bằng hạt đối với cà phê vối (hữu tính). Phương pháp nhân giống vô tính dựa trên cơ sở bình tuyển, chọn lọc những cây mẹ xuất sắc có ở trong sản xuất đặc biệt là sản lượng cao và ổn định qua 3 – 4 năm theo dõi, kỹ thuật nhân giống vô tính không phức tạp, các cơ sở sản xuất có thể làm được, sẽ có quy trình hướng dẫn riêng về phương pháp sản xuất cành giâm bằng con đường vô tính.
2. Chế biến và bảo quản hạt giống
Chọn quả giống đã chín hoàn toàn để hái đem về chế biến trong vòng 24 giờ. Trong khi chờ đợi cần rải mỏng dày từ 8 – 10 cm. Sau khi xát tươi đem ủ từ 10 – 12 giờ rồi đem đãi thật sạch nhớt. Khi phơi cần rải mỏng từ 2 – 3 cm, ở trong bóng mát, thoáng gió, hoặc nắng nhẹ. Có thể phơi trên nong, cót để cho dễ thoát nước và dễ vận chuyển từ nơi nắng vào nơi mát. Thường xuyên đảo từ 1 – 2 giờ một lần để hạt giống khô đều, ít nứt nẻ. Khi độ ẩm ở trong hạt còn từ 20 – 30%, trung bình 25%, cắn hạt thấy còn dẻo là đã đủ độ ẩm để cung cấp làm giống. Thời gian bảo quản không nên quá hai tháng. Hạt giống càng để lâu càng mất sức nẩy mầm. Trong khi bảo quản cần rải hạt giống có độ dày từ 5 – 7 cm, hàng ngày có cào đảo để chống hiện tượng hạt giống bị thối mốc. Chú ý đặt trên giá cao ráo, không rải trực tiếp trên nền xi măng hay nền gạch không để trong kho có mái lợp bằng tôn kẽm, cần chọn nơi thoáng mát để bảo quản hạt giống. Hạt giống được đem bảo quản ở kho lạnh sẽ kéo dài được sức nẩy mầm.
3. Xử lý hạt giống
Hòa với nước vôi theo tỷ lệ: 0,5 kg vôi bột tốt trong 20 lít nước (2,5%) sau đó chỉ gạn lấy phần nước vôi trong đem đun nóng 60oC rồi cho hạt giống vào ngâm từ 20 – 24 giờ (hạt quá khô có thể ngâm 26 giờ). Sau đó đem đãi thật kỹ cho hết lớp nhớt bám ở vỏ hạt bằng nước lã sạch tùy theo số lượng hạt giống nhiều hay ít mà có hai các ủ sau đây:
+ Ủ hạt giống trong luống chìm: Chiều rộng luống từ 1 – 12 m, chiều sâu luống từ 0,6 – 0,8 m, cho các lớp nguyên liệu sau đây kể từ đáy luống trở lên:
* Lớp lá cây phân xanh tươi: 20 – 25 cm.
* Phân chuồng độn rác chưa hoai: 20 – 25 cm.
* Lớp vôi bột mỏng: 0,5kg/m2.
* Lớp rơm rạ sạch: 10 cm.
* Lớp bao tải sạch.
* Lớp hạt giống: giai đoạn đầu dày 10 – 15 cm, giai đoạn sau khi nẩy mầm chỉ dày 5 – 7 cm.
* Lớp bao tải sạch đậy phủ lên trên lớp hạt giống.
* Lớp rơm, cỏ khô, sạch đậy kín trên mặt luống dày 20 – 30 cm, có thể kết lại thành tấm liếp phủ kín trên mặt luống (để giữ nhiệt).
Xung quanh luống và phía trên mái luống phải được che kín gió. Ban trưa trời nắng to cần dỡ mái lợp luống để nhiệt độ của mặt luống ủ hạt giống được tăng thêm. Những ngày giá rét có thể đốt lửa ở gần luống ủ hạt để tăng thêm nhiệt độ (chú ý chống cháy). Khi kiểm tra thấy hạt giống thiếu ẩm cần đun nước nóng 600C để tưới vào lớp hạt giống ủ. Nếu ủ trong luống thường thì sau 7 – 10 ngày hạt giống đã lác đác nảy mầm, tốt nhất là khi hạt giống mới nhú mầm (nứt nanh) thì lựa ra đem gieo vào bầu ngay, không để mầm dài quá 3 mm. Nếu để mầm quá dài khi gieo đuôi rễ có thể bị gãy tạo ra bộ rễ biến dạng hay thiếu rễ cọc, chỉ có những rễ phụ hoặc làm cho rễ đuôi chuột bị cong.
+ Ủ hạt giống trong thúng: Nếu lượng hạt giống chỉ có một vài cân thì sau khi làm xong phải xử lý hạt giống sẽ đem ủ ở trong thúng. Cách làm như sau:
Dùng rơm, rạ sạch lót vào đáy và thành thúng, sau đó lót trên bề mặt của lớp rơm rạ một chiếc bao tải sạch. Đưa hạt giống vào ủ ở trong thúng, phía trên mặt lớp hạt giống cũng được đậy kín bằng một chiếc bao tải sạch và trên miệng thúng được phủ thêm một số bao tải hay một lớp rơm dày. Thúng ủ hạt này có thể để ở trong nhà bếp để giữ nhiệt hoặc trưa nắng có thể đem ra phơi để tăng nhiệt cho quá trình nẩy mầm. Hàng ngày cần kiểm tra nếu thấy hạt giống thiếu ẩm thì dùng nước nóng 60oC để tưới cho khối hạt giống.
Kinh nghiệm ở một số nơi cho thấy. Nếu đem bóc vỏ phần vỏ trấu của hạt giống thì thời gian nảy mầm sẽ nhanh chóng hơn được vài ngày.
4. Kỹ thuật gieo hạt
Hạt đặt sâu từ 1 – 1,5 cm so với mặt đất, đặt hạt nằm úp (phía mặt phẳng của hạt nằm phía dưới, phía mặt khum cong ở phía trên). Dưới đây là quá trình nảy mầm, ra rễ, bung lá sò và phát triển cây con (hình 4 và 5).
Nếu để rễ mầm quá dài mới đem gieo hoặc đặt hạt không đúng hướng sẽ dễ dàng làm cho bộ rễ bị biến dạng. Rễ bị biến dạng còn có các nguyên nhân khác là: Đất ở trong bầu làm chưa kỹ, còn nhiều cục to, phân trộn không đều, bầu đất để quá khô không được tưới nước khi gieo hạt. Nếu cây con có bộ rễ bị biến dạng như các hình b, c, d ở trên mà đem trồng thì sau đó cây sinh trưởng kém, lá dễ bị úa vàng bởi vì bộ rễ không có khả năng đâm sâu xuống các tầng đất ở dưới để hút nước vào các thời kỳ khô hạn.
5. Thời vụ trồng
Nguyên tắc chung của thời vụ trồng thích hợp là vào đầu mùa mưa khi đất đã đảm bảo được độ ẩm. Thời vụ trồng đối với các tỉnh ở Tây Nguyên phù hợp nhất là trong tháng 6. Nếu năm mưa sớm cây con đã đủ tiêu chuẩn trồng thì có thể trồng vào tháng 5. Những năm mưa muộn có thể trồng sau tháng 7. Những vùng có chế độ mưa chấm dứt vào cuối năm thì có thể trồng muộn hơn. Trong kinh tế vườn có thể trồng muộn vào cuối mùa mưa nếu trong mùa khô có đủ nước tưới và có tủ gốc dày.
6. Tủ gốc giữ ẩm
Đây là một biện pháp hết sức quan trọng đối với những vùng có mùa khô hạn. Ngay sau khi trồng mới có thể tiến hành tủ gốc ngay để đề phòng các tiểu hạn, song bước vào thời kỳ cuối mùa mưa, đầu mùa khô còn phải tiến hành tủ gốc giữ ẩm. Ngoài vai trò giữ ẩm ra nó còn có nhiều tác dụng khác: tăng thêm chất hữu cơ cho cây cà phê làm thuận lợi quá trình chuyển hóa các chất dinh dưỡng khoáng điều hòa đựơc nhiệt độ và độ ẩm trong đất, chống cỏ dại xung quanh gốc cà phê đặc biệt là cỏ tranh. Vào cuối mùa mưa cần làm cỏ sạch gốc, trên hàng, giữa hàng để lấy nguyên liệu hữu cơ đó cùng các loại cây phân xanh, đậu đỗ trồng xen trong lô, cùng với việc lấy thêm các nguyên liệu tủ gốc khác ở bên ngoài đem vào như rơm, rạ, cây phân xanh v.v… Để tiến hành tủ gốc cho vườn cà phê, cần tủ một lớp dày từ 20 – 30 cm, đường kính của thảm tủ rộng ra ngoài bộ tán của cà phê từ 20 – 30 cm, lớp nguyên liệu cần tủ cách gốc cà phê chừng 10 cm để chống mối làm hại cây. Trên bề mặt lớp tủ cần đắp lên một lớp đất mỏng để tăng thêm khả năng giữ ẩm, chống cháy và chống gió làm bay mất rác tủ. Tủ gốc tốt cũng góp phần tạo ra bồn tưới nước cho cà phê trong mùa khô. Ở những nơi có điều kiện có thể dùng nguyên liệu để tủ thành băng cả hàng cà phê hoặc có thể phủ cả toàn bộ điện tích kể cả giữa hai hàng cà phê. Cỏ voi cũng là nguyên liệu tủ gốc tốt, tăng hàm lượng ka-li cho đất.
7. Cây trồng xen che phủ bảo vệ cải tạo đất trong vườn cà phê ở thời kỳ kiến thiết cơ bản
Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản các vườn cà phê cần trồng những cây trồng xen sau đây để bảo vệ, cải tạo, nâng cao độ phì của đất. Các cây trồng có thể sử dụng như sau: Đậu phụng, đậu tương, đậu hồng đáo, đậu mèo ngồi, các loại đậu đỗ khác, đậu lông, thẹn không gai, Flemingia congusta, muồng hoa vàng v.v… Cây trồng xen có thể trồng vào đầu mùa mưa ở giai đoạn trước khi trồng cà phê hoặc: trồng vào cùng giai đoạn với lúc trồng cà phê. Trong mùa mưa có thể trồng được 2 vụ, cây trồng xen hoặc nếu là cây phân xanh có thể cắt vài lần trong mùa mưa để tăng thêm sinh khối chất xanh trên cùng một đơn vị diện tích. Cây, cành, lá của cây trồng xen ở vụ 2 sẽ dùng làm nguyên liệu tủ gốc vào cuối mùa mưa, đầu mùa khô. Gieo cây phân xanh, đậu đỗ trồng xen thành băng nằm giữa hai hàng cà phê hoặc trên hàng giữa 2 cây cà phê.
Thường khoảng cách giữa cây cà phê và cây trồng xen rộng từ 60 – 80 cm.
Chú ý xử lý cây trồng xen để không cho che phủ, leo cuốn lên cây cà phê. Nơi thiếu phân chuồng có thể dùng thân lá cây trồng xen để ép xanh. Đào hố hình vành khăn vào vùng xung quanh mép tán của cây cà phê có độ sâu từ 30 – 40 cm, và chiều rộng từ 30 – 40 cm, sao cho thân lá cây trồng xen vào trong hố rồi lấp đất kín lại.
8. Che túp
Tác dụng của che túp là để chống gió, chống rét, chống hạn. Ở những nơi sau thời gian trồng mới thường có tiểu hạn thì phải tiến hành che túp. Trong mùa mưa không cần phải che túp, song trong mùa khô và mùa đông thì che túp có tác dụng chống gió, chống hạn chống rét. Có thể dùng túp che kín xung quanh cây cà phê hoặc làm các tấm chắn đặt vào phía hướng gió chính thổi tới. Cần chú ý tới độ cao, để không làm ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng của cây cà phê nằm trong túp. Ở những nơi đã trồng được các cây phân xanh để che gió, che bóng tạm thời, có đai rừng chắn gió, có tủ gốc tốt thì không nhất thiết phải che túp.
9. Cây che bóng và đai rừng chắn gió
Cây che bóng có mấy tác dụng sau đây:
* Điều tiết ánh sáng cho phù hợp với yêu cầu sinh lý của các giống cà phê.
* Điều hòa nhiệt độ, ẩm độ trong không khí.
* Giảm lượng bốc hơi từ trong đất.
* Bảo vệ cấu tượng của đất, nâng cao độ phì của đất (qua bộ lá cây che bóng mát là họ đậu rụng xuống đất).
* Hạn chế sinh trưởng của cỏ dại.
* Vườn cây cho năng suất bền, ổn định, khắc phục hiện tượng sản lượng năm cao năm thấp.
a) Cây che bóng, che gió tạm thời:
Cần trồng xung quanh gốc cà phê (vòng tròn) hay trồng thành một vòng cung ở phía hướng gió chính, trồng ở trên hàng vào khoảng cách giữa hai cây cà phê hoặc trồng thành băng ở giữa hai hàng cà phê bằng các cây phân xanh có thân đứng cao như muồng hoa vàng. Giữa hai gốc cà phê ở trên hàng có thể dùng cây cốt khí hoặc đậu săng. Khoảng cách từ gốc cây che gió, che bóng tạm thời đến gốc cây cà phê ít nhất phải xa từ 70 – 80 cm. Trồng gần sát hố cà phê sẽ gây hiện tượng tranh chấp dinh dưỡng và tranh chấp nước giữa cây che bóng, che gió tạm thời với cây cà phê. Cần chú ý xử lý cây che bóng, che gió tạm thời khi thấy chúng đã bắt đầu giao tán với cây cà phê. Khi rong tỉa cây che bóng, che gió tạm thời sẽ lấy nguyên liệu cành, lá đó để tủ gốc hoặc ép xanh góp phần làm tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất trồng cà phê.
b) Cây che bóng lâu dài:
Cây che bóng lâu dài gồm hai tầng: cây tầng thấp và cây tầng cao. Ở Tây Nguyên thường dùng cây keo dậu gồm 2 chủng leucaena glauca (thường gọi là cây táo nhơn hay bồ kết dại) và Leucaena leucocephala (thường gọi là keo Cu-ba). Cây bóng mát tầng cao thường dùng cây muồng đen (Cassia seamia) một số nơi như ở Lâm Đồng còn dùng cây keo tây. Cây bóng mát có tầng thấp trồng với khoảng cách như sau:
Cà phê vối trồng với khoảng cách: 6 x 7,5 m
Cà phê chè dạng cây lùn trồng với khoảng cách: 5 x 6 m
Các loại cà phê chè khác: 6 x 6 m
Chú ý trồng cây bóng mát ở trên hàng nằm giữa khoảng cách của 2 hố cà phê.
Cây bóng mát tầng cao kết hợp với hàng cây che gió có khoảng cách giữa các hàng là 24 m (cứ 9 hàng cà phê thì trồng hàng cây che bóng tầng cao). Khoảng cách giữa các cây trên hàng là 7,5 m, cây bóng mát trồng vào giữa vị trí của 2 cây cà phê. Tại miền Bắc còn trồng cây trẩu (Aleurites montana) và cây đậu chàm (Indigofera) để làm cây che bóng. Cần rong tỉa cây bóng mát kịp thời để bộ tán của cây bóng mát không trùm trực tiếp lên tán cà phê đặc biệt là trong mùa mưa. Trong thời kỳ cà phê ở tuổi kinh doanh thì bộ tán của cây che bóng phải cao cách bộ tán của cây cà phê trên 5 – 7 m.
c) Đai rừng chắn gió:
Xung quanh vùng trồng cà phê cần trồng các hệ đai rừng chắn gió chính. Đai rừng này cần thẳng góc với hướng gió chính hoặc chếch một góc 600. Đai rừng chính rộng 9 m, ở giữa trồng 3 hàng muồng đen, hàng cách hàng 1,5 m, và cây cách cây 2 m (trồng nanh sấu). Hai bên mép đai rừng có thể trồng thêm 2 hàng cây ăn quả như mít, nhãn, xoài tạo thành những hành cây chắn gió ở tầng thấp. Tại miền Bắc có kinh nghiệm trồng cây bạch đàn và Đài Loan tương tự để làm đai rừng chắn gió. Tùy theo từng nơi còn có thể sử dụng cây chàm bông vàng để làm đai rừng chắn gió cũng cho kết quả tốt. Tại các vùng chuyên canh tập trung có diện tích lớn thì cứ 500 m lại xây dựng một đai rừng chính. Ngoài tác dụng che gió, đai rừng còn có tác dụng điều hòa sự bốc hơi và tăng nhiệt độ vào mùa đông ở trong lô trồng. Các đai rừng phụ trồng xen kẽ ở các đường lô hoặc giữa hai khoảnh, có thể trồng cây muồng đen, tràm bông vàng hay cây mít ở trong các đai rừng phụ.
10. Tưới nước
Trong mùa khô hạn khi thấy cây cà phê có hiện tượng thiếu nước thì cần phải tiến hành cung cấp nước kịp thời. Hai hình thức chủ yếu để cung cấp nước cho cây cà phê đó là: tưới trực tiếp vào gốc và tưới phun mưa.
a) Tưới gốc:
Tiến hành tưới gốc cho cây cà phê trong thời kỳ kiến thiết cơ bản trên cơ sở tủ gốc, và trồng cây che gió, che bóng tạm thời. Mỗi gốc tưới từ 40 – 60 lít nước/lần tưới. Khoảng cách giữa 2 lần tưới từ 20 – 30 ngày. Nếu không có tủ gốc, thiếu cây che gió, che bóng tạm thời thì khoảng cách giữa 2 lần tưới sẽ ngắn hơn. Khi cà phê đã bắt đầu vào giai đoạn ra hoa thì lượng nước tưới ở trên không còn đủ nữa. Tối thiểu một lần tưới là 100 lít trở lên, thời gian giữa 2 lần tưới sẽ ngắn hơn. Tuy có tưới nước nhưng lượng nước tưới nếu không đủ sẽ dễ dàng làm cho cây chết trong mùa khô, hoặc làm chết khô các cặp cành cơ bản trong vụ ra hoa bói vì thời kỳ ra hoa cây đòi hỏi rất nhiều nước. Cà phê kinh doanh nếu làm được bồn tốt cũng có thể tưới gốc, song lượng nước tưới cho một gốc phải đạt từ 150 – 200 lít/gốc. Ở những nơi có điều kiện về địa hình và nguồn nước dồi dào thì có thể tiến hành tưới thấm theo rãnh.
b) Tưới phun nước:
Cà phê ở vụ ra hoa bói rộ (thường sau khi trồng 16 – 18 tháng) và khi chuyển vào thời kỳ kinh doanh thì cần áp dụng kỹ thuật tưới phun mưa. Đối với các vùng khô hạn, sau khi các mầm hoa đã phân hóa và phát triển khá hoàn chỉnh (hoa đã ở dạng mỏ sẻ nhỏ có màu xanh hoặc xám xanh) thì tiến hành tưới lần đầu với lượng nước từ 700 – 800 m3/ha. Các lần sau tưới từ 500 – 600 m3/ha. Khoảng cách giữa các lần tưới tùy thuộc vào mức độ che phủ, chắn gió và loại đất mà biến động từ 15 – 20 ngày. Thông thường trong một mùa khô ở Tây Nguyên cần có số lần tưới từ 3 – 6 lần. Lượng nước tưới cần cho một ha trong một vụ tưới thông thường cần từ 3.200 – 3.800 m3. Tưới phun mưa sẽ tạo được tiểu khí hậu trong lô, tăng độ ẩm không khí, vì vậy rất thuận lợi cho quá trình nở hoa của cà phê.
11. Tạo hình
Tạo hình sửa cành cho cà phê là một trong những biện pháp kỹ thuật hết sức quan trọng. Có thể đặt vị trí của tạo hình sửa cành chỉ đứng sau phân bón và nước tưới. Tạo hình sửa cành tốt sẽ tạo ra một bộ tán cà phê cân đối, mang nhiều cành quả, sử dụng hợp lý được không gian để tạo ra mô hình cho năng suất cao và ổn định giữa các năm. Coi biện pháp tạo hình cho cà phê là một kỹ thuật có mang tính nghệ thuật cao như nghệ thuật tạo hình cho cây cảnh. Vì vậy, phải tác động vào đúng chỗ, đúng thời gian, đúng với hiện trạng của từng cành, từng cây trên cơ sở dựa vào quy luật ra cành ra hoa của cây cà phê để tác động thì mới đưa lại kết quả như ý muốn. Các nội dung tạo hình sẽ được trình bày ở dưới đây tập trung vào cây cà phê vối và cà phê chè.
12. Cưa đốn phục hồi
Các vườn cà phê sau một thời gian kinh doanh dài đã già cỗi, năng suất thấp xét thấy không còn cho hiệu quả kinh tế nữa thì tiến hành cưa đốn phục hồi để làm trẻ lại chuyển sang chu kỳ kinh tế mới.
a) Thời vụ cưa:
Tiến hành cưa phục hồi vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa. Nếu cưa quá sớm vào trong mùa khô có thể làm cây chết. Nếu cưa muộn quá vào trong mùa mưa sẽ hạn chế thời gian phát sinh và phát triển của các chồi vượt, không tận dụng được đầy đủ điều kiện thuận lợi của mùa mưa để nuôi các thân mới trên gốc đã cưa. Ở Tây Nguyên thời gian cưa vào khoảng trong tháng 4, những năm có mưa sớm thì có thể cưa sớm hơn.
b) Độ cao cưa:
Gốc cây giữ lại sau khi cưa còn từ 20 – 25 cm, đối với các vườn cà phê cưa lần đầu. Nếu cưa lần thứ hai thì gốc giữ lại từ 30 – 35 cm.
c) Số thân giữ lại trên một gốc:
Sau khi cưa từ 2 – 3 tháng, sẽ phát sinh trên gốc nhiều chồi vượt. Những lần đầu chọn lọc giữ lại từ 5 – 6 chồi mọc khỏe phân bố đều ở xung quanh gốc. Sau khi các chồi vượt mọc cao từ 30 – 40 cm thì chọn lọc lần cuối cùng để giữ lại mỗi gốc từ 3 – 4 thân tốt nhất (hình 24).
Chú ý sau khi cưa cần tiến hành kéo cây ra khỏi lô trồng, dọn dẹp vệ sinh, rong tỉa cây bóng mát. Cày bừa phay một lớp mỏng dày 10 cm để phá bỏ và cải tạo các lớp rễ nằm trên tầng mặt. Vào đầu mùa mưa cần gieo cây phân xanh đậu đỗ để che phủ, bảo vệ, cải tạo nâng cao độ phì của đất. Đối với những cây bị bệnh gỉ sắt nặng ở trong lô chưa đến tuổi phải cưa đốn phục hồi, thì có thể tiến hành cưa đốn cục bộ những cây này, sau chọn những chồi vượt của những cây mẹ có năng suất cao, không bị bệnh để ghép vào thay thế
13. Phân bón
Cà phê là một loại cây trồng có yêu cầu thâm canh cao, phân bón là một trong những yếu tố được xếp vào thứ tự hàng đầu. Trồng cà phê nếu không đảm bảo lượng phân hữu cơ và vô cơ sẽ dẫn tới không có hiệu quả kinh tế. Bón đúng lúc, đủ lượng cần thiết sẽ tránh được lãng phí do rửa trôi, bốc hơi và đưa lại năng suất cao. Vì vậy, khi muốn trồng cà phê phải lo giải quyết vấn đề phân bón.
a) Lượng phân bón:
– Trồng mới: Mỗi hố bón từ 10 – 20 kg phân chuồng tốt, nếu thiếu phân chuồng phải có từ 10 – 20 kg phân hữu cơ đem trộn lẫn với 0,3 kg phân lân nung chảy hay super lân đem lấp ủ ở trong hố trước khi trồng cà phê từ 1 – 2 tháng. Sau khi trồng mới, cây sẽ bén rễ phát triển tốt, vài giai đoạn làm cỏ, tủ gốc giữ ẩm trước giai đoạn kết thúc mùa mưa nên bón cho mỗi gốc 25 g đạm Sunfat và 25 g sunfat kali (xới trộn vào trong tầng đất mặt trong lòng hố cà phê). Hai dạng phân trên sẽ góp phần cải thiện tình trạng thiếu lưu huỳnh ở trong đất gây nên hiện tượng bạc lá cà phê. Chất hữu cơ đối với cà phê có tầm quan trọng đặc biệt, vì thế nếu lượng phân chuồng không đủ thì phải tìm mọi biện pháp để cung cấp nguồn chất hữu cơ cho lô trồng cà phê để lấy nguyên liệu tủ gốc và ép xanh. Tủ gốc tốt cũng là một biện pháp tích cực để duy trì và tăng thêm chất hữu cơ cho từng hố cà phê. Quá trình phân giải và chuyển hóa chất hữu cơ ở trong đất trồng cà phê cũng làm tăng quá trình chuyển hóa từ lân khó tiêu sang lân dễ tiêu có lợi cho yêu cầu dinh dưỡng khoáng của cây cà phê đặc biệt là thời kỳ kiến thiết cơ bản
IV. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH VÀ CỎ DẠI
1. BỆNH HẠI
Một số loại bệnh hại cây cà phê chủ yếu thường hay gặp như sau:
1.1. Bệnh gỉ sắt hay nấm vàng da cam (Hemileia vastatrix Bet. Br).
Bệnh nấm này xuất hiện ở tất cả các nơi có trồng cà phê ở Việt Nam. Triệu chứng điển hình của bệnh này là trên lá xuất hiện những vết bệnh hình tròn, trên mặt vết bệnh có một lớp bột phấn vàng màu da cam. Đó là những bào tử của nấm bệnh. Tác hại chủ yếu của nó là làm rụng lá dẫn tới hậu quả khô cành, giảm hoặc mất sản lượng. Tại miền Bắc bệnh phát sinh và phát triển vào hai vụ: Thu Đông và Xuân Hè. Bệnh nặng nhất vào các tháng 10, 11, 12 và 3, 4 trong năm. Ở miền Nam bệnh phát triển mạnh và nặng ở các tháng 10, 11, 12. Cà phê chè bị bệnh này rất nặng, cà phê vối có một tỷ lệ đáng kể. Cà phê mít bị bệnh ở mức độ trung bình.
Biện pháp phòng trừ:
Sử dụng giống có khả năng kháng bệnh. Đối với những giống dễ mẫn cảm với bệnh thì dùng thuốc hóa học để phun phòng trừ. Các thuốc nấm thường được sử dụng là Boóc-đô 0,5 – 1%, Oxyd chlorid đồng 1% phun vào mặt dưới của lá ở giai đoạn bệnh mới phát triển và trong mùa bệnh, khoảng cách thời gian phun lần sau so với lần trước từ 3 – 4 tuần lễ. Trong mùa mưa cần sử dụng chất dính như Hafton để tăng độ bám dính của thuốc. Hiện nay một số nước đã dùng một số thuốc nội hấp có khả năng phòng và trừ được bệnh như: Sicarol, Bayleton, Anvil, Sumi-eight, nồng độ phun thuốc như sau: Bayleton 0,1%, Anvil 5SC dùng 0,2% và Sumi-eight 12,5WP dùng 0,05%. Còn Sicarol dùng từ 3 – 4 lít pha trong 600 lit nước để phun phòng trừ. Chú ý khi bệnh đã phát triển vào giai đoạn cuối của mùa bệnh thì không nên tiến hành phun thuốc phòng trừ nữa. Cần làm cỏ sạch, tỉa cành cho cây thông thoáng, vệ sinh đồng ruộng để hạn chế sự lây lan và phát triển của bệnh.
1.2. Bệnh khô cành, khô quả (Anthracnose, Die Back)Nguyên nhân sinh lý hay do nấm Colletotrichum coffeanum Noack gây nên. Bệnh thường phát triển từ đầu mùa mưa nhưng thể hiện rõ rệt khi quả non đã ở được 6 – 7 tháng tuổi. Bệnh gây hiện tượng khô cành, khô quả, khô lá thành từng vết hay thành từng mảng trên phiến lá. Khi bệnh nặng có thể làm cho cà phê bị chết khô không hồi phục lại được. Tác hại của bệnh nhiều nơi không kém gì bệnh gỉ sắt.
Biện pháp phòng trừ:
Cần bón phân đầy đủ đặc biệt là phân đạm, kali có tác dụng hạn chế sự tác hại của bệnh. Nếu hàm lượng đạm ở trong lá có từ 4% trở lên thì cây cà phê không bị loại bệnh này gây tác hại. Khi thấy xuất hiện bệnh thì dùng các loại thuốc có gốc đồng để phun phòng trừ. Nồng độ và khoảng cách giữa hai lần phun giống như phòng trừ bệnh gỉ sắt. Vị trí phun tập trung chủ yếu vào cành và quả, nơi bị bệnh nặng cần phun từ 2 – 3 lần một vụ. Trồng cây che bóng một cách hợp lý cũng hạn chế được sự xuất hiện của bệnh. Cà phê không có cây che bóng rất dễ dàng xuất hiện bệnh khô cành, khô quả. Có thể dùng thuốc nội hấp Derosal pha 0,1%, phun 2 lần cách nhau 14 ngày, khi vừa đậu trái để phòng trừ.
1.3. Bệnh nấm hồng (còn gọi là mốc hồng)
Bệnh này do nấm Corticium salmonicolor gây nên.Vị trí tác hại chủ yếu là ở trên cành, đôi khi bệnh nặng có tất cả các cành trên phía ngọn. Mầu sắc của vết bệnh có màu hồng, vết cũ có màu trắng xám vỏ cành bị nứt nẻ.
Biện pháp phòng trừ: Chủ yếu là phát hiện kịp thời để cắt đốt những cành bị bệnh. Cần cắt sâu xuống phía dưới vết bệnh khoảng 10 cm, để khỏi sót nguồn bệnh còn lại ở trên cây. Có thể dùng thuốc Boóc-đô đặc 5% để quét lên cành bệnh, hoặc phun thuốc có gốc đồng với nồng độ 0,5 – 1% vào vùng có cây bị bệnh. Bệnh nấm hồng thường phát triển vào mùa mưa, nhất là các tháng 7, 8, 9, 10. Cần tỉa cành, tạo hình làm cho bộ tán cây thông thoáng và tạo cho lô trồng không quá ẩm ướt.
1.4. Bệnh màng nhện (sợi bạc)
Bệnh này do nấm Corticium kolerega gây nên. Khác với bệnh nấm hồng triệu chứng bệnh có màu hồng như một lớp nỉ bám trên cành, còn bệnh màng nhện thì có những sợi rất mảnh bám trên cành rồi lan ra các cuống và phiến lá trông như những sợi bạc. Các lá bị bệnh khi rụng còn treo lại ở trên cành do hệ sợi nấm này giữ lại. Bệnh thường phát triển ở trong mùa mưa, những nơi ẩm ướt thiếu ánh sáng và chỉ lẻ tẻ ở một số cây. Bệnh có thể làm khô hầu hết bộ tán lá đặc biệt là ở cà phê chè. Khi thấy bệnh xuất hiện dùng các loại thuốc có gốc đồng 0,5 – 1% để phun phòng trừ. Cần chú ý điều chỉnh cây bóng mát, tỉa cành làm cho lô trồng thoáng khí không quá ẩm ướt.
1.5. Bệnh lở cổ rễ
Bệnh này do nấm Rhizoctonia solani gây nên. Tác hại chủ yếu của bệnh là đối với cây con trong thời kỳ vườn ương và thời kỳ kiến thiết cơ bản. Vị trí bệnh xâm nhập gây tác hại là ở phần cổ rễ (cổ rễ bị teo, khô thắt lại ngăn cản hay làm đình trệ quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng để nuôi cây).
Biện pháp phòng trừ:
Đất trước khi cho vào bầu phải làm kỹ, nhỏ, không có cục to. Không để mặt bầu khô đóng váng dễ gây những vết thương cơ giới. Vườn cần phải che kín gió. Trước khi đem cây con ra trồng cần kiểm tra kỹ để loại bỏ những cây đã bị bệnh. Những nơi đã bị bệnh nặng thì sau đó không được làm lại vườn ương ở vị trí cũ. Những cây đã bị bệnh nặng cần nhổ đem đốt, cây còn bị nhẹ hoặc ở vùng có cây bị bệnh cần dùng các loại thuốc dưới đây để tưới hay phun xử lý: TMTD (Thiuram) 0,5%, Maneb, Zineb từ 0,2 – 0,3%.
1.6. Bệnh rễ do tuyến trùng (Nematodes)
Một số loại tuyến trùng gây hại đối với cà phê ở Việt Nam là:
– Tuyến trùng gây vết thương: Pratylenchus coffea.
– Tuyến trùng gây nốt sần: Meloidogyne spp.
– Tuyến trùng nội sinh và nửa nội sinh là: Tylenchus và Pratylenchus v.v…
Tuyến trùng có thể gây tác hại trong thời kỳ vườn ương nhưng chủ yếu là ở trên đồng ruộng. Cây cà phê bị tuyến trùng thường sinh trưởng kém, mùa khô thường bị vàng héo, cây bị nặng có thể chết khô ngay ở trên lô trồng. Triệu chứng của tuyến trùng gây vết thương là làm cho rễ bị sưng u, có những đường nứt nẻ. Còn tuyến trùng gây nốt sần chỉ ở trên các rễ phụ có những u dạng nốt sần.
Biện pháp phòng trừ:
Những cây bị bệnh nặng nhổ đem đi đốt. Những vùng đã bị bệnh nặng cần luân canh với cây trồng khác, hoặc cải tạo đất bằng cây phân xanh ít nhất từ 2 – 3 năm sau mới trồng lại cà phê. Con đường chọn lọc giống chống bệnh dùng gốc ghép chống bệnh cũng thường được chú ý để phòng chống bệnh này. Những cây bị bệnh nhẹ tăng cường bón phân hữu cơ, có thể dùng một số loại thuốc sau đây để bơm vào đất xử lý: Nemaphos, Teracur, Nemagon, Methylbromid. Cây cúc vạn thọ cũng là cây có khả năng diệt tuyến trùng. Trồng cây này trong vùng cây bị bệnh hoặc xung quanh gốc cây cà phê để chúng tiết ra các chất diệt tuyến trùng trong đất hoặc ở vùng xung quanh bộ rễ của nó. Có thể đem băm thân và rễ cây cúc vạn thọ sau đem vùi vào gốc cà phê.
1. 7. Bệnh thối rễ
Một số loại nấm ở trong đất như Rhizoctonia, Fusarium… tấn công gây tác hại vào bộ rễ của cây cà phê. Triệu chứng: Trên các rễ ngang, chóp rễ, phần rễ đuôi chuột xuất hiện những vết thối mềm có màu thâm đen. Cây bị bệnh sinh trưởng cằn cỗi, lá vàng, héo, cây bị nặng sẽ bị chết.
Biện pháp phòng trừ: Chú ý tới biện pháp thâm canh, tăng cường bón phân hữu cơ, cải thiện đặc điểm lý và hóa tính của đất đặc biệt là giảm độ chua của đất. Chưa có những loại thuốc hóa học để phòng trừ bệnh thối rễ có hiệu quả.
1. 8. Bệnh đốm mắt cua
Bệnh này do nấm Cercospora coffeicola gây nên. Phòng trừ chủ yếu bằng con đường thâm canh tổng hợp ở giai đoạn cà phê kiến thiết cơ bản. Những cây con còn thừa lại trong vườn ương từ năm trước do thiếu được chăm sóc, vì vậy bệnh này dễ xuất hiện và gây tác hại nặng. Nơi bị bệnh nặng có thể dùng các loại thuốc gốc kim loại đồng nồng độ từ 0,5 – 1% để phun phòng trừ.
1.9. Nấm muội đen (Fumagine)
Nấm này có màu đen phủ lên bề mặt của lá ngăn cản quá trình quang hợp của cây. Muốn ngăn ngừa nấm muội đen đầu tiên là phải tiến hành phòng trừ tốt các loại rệp chích hút các cành lá non. Đặc biệt là rệp vảy xanh (Coccus viridis) đã thải ra một số chất bài tiết ở trên lá, sau đó nấm muội đen mới phát triển được ở trên các chất này (đây là môi trường để cho nấm muội đen phát triển). Phòng trừ xem phần rệp vảy xanh ở phần sau.
1.10. Một số bệnh sinh lý
Bệnh bạc lá:
Lá bị mất diệp lục bạc trắng thường xuất hiện ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Nguyên nhân do trong đất thiếu một số nguyên tố, trung lượng và vi lượng đặc biệt là lưu huỳnh. Dùng các dạng phân có gốc lưu huỳnh như sunfat đạm, sunfat kali để bón cho cây. Ở NHỮNG NƠI ĐÃ XUẦT hiện bệnh bạc lá có thể dùng dung dịch sunfat đạm, sunfat kẽm pha nồng độ 0,1% để phun lên bộ tán của cây từ 1 – 2 lần/vụ cách nhau hai tuần lễ vào đầu mùa mưa.
– Bệnh rụt cổ:
Nguyên nhân chủ yếu của bệnh này là do thiếu kẽm ở trong đất. Những cây bị bệnh có triệu chứng phân cành đốt ở phía trên ngọn bị rụt lại không phát triển được, lá nhỏ, dài và dòn dễ bẻ gẫy, phiến lá có màu vàng xanh, thiếu diệp lục so với các lá khỏe phát triển bình thường. Có thể dùng muối sunfat kẽm pha nồng độ từ 0,2 – 0,3% để phun lên toàn bộ tán lá.
2. SÂU HẠI
Một số loại sâu hại chủ yếu cần chú ý để phòng trừ như sau:
2.1. Rệp vảy xanh: (Coccus viridis) và rệp vảy nâu (Saissetialhemisph-aerica).
Cần phát triển những cây, vùng bị rệp tác hại ở lá, đọt, cành non để phun thuốc diệt trừ kịp thời, tránh cho sự lây lan từ cây này sang cây khác. Dùng các loại thuốc có hiệu lực diệt rệp cao là: Methyl Parathion, Roger, BI-58, Tinox… phun trực tiếp vào nơi có rệp chích hút với nồng độ 0,1 – 0,2%. Lần phun thứ hai cách lần phun thứ nhất từ 7 – 10 NGÀY. Ở những nơi trên cây bị rệp hại có kiến thì dùng 666 bột thấm nước rắc một lớp mỏng vòng xung quanh gốc cây để diệt kiến là vật trung gian đem rệp con từ cây này sang cây khác. Cần kiểm tra kỹ trong vườn ương trước khi đưa cây con đi trồng mới. Nếu có rệp phải phun thuốc phòng trừ ngay từ trong vườn ương.
2.2. Mọt đục quả: (Stephanoderes hampei)
Nói chung khi quả bước vào giai đoạn chín thì mọt đục lỗ từ núm quả chui vào bên trong đẻ trứng sau đó phá hại hạt. Dùng các loại thuốc như: Dieldrin, Eldrin pha nồng độ từ 0,25 – 1% hoặc DDT sữa để phun phòng trừ vào giai đoạn quả chuyển từ xanh sang chín đối với những vùng có mọt tác hại. Lần phun thuốc sau cách lần phun trước 3 – 4 tuần. Hiện nay có nhiều nước đã dùng loại thuốc mới là Thiodan với liều lượng từ 3 – 4 lít thuốc pha trong 600 lít nước để phun phòng trừ mọt đục quả đưa lại hiệu quả rất tốt.
Biện pháp phòng trừ quan trọng có ý nghĩa kinh tế và để làm, cần được làm tốt đó là: Cà phê chín đến đâu cần thu hoạch kịp thời không để kéo dài. Sau vụ thu hoạch cần tận thu hết cả những quả khô còn sót lại ở trên cây. Lượm sạch những quả rụng còn nằm ở dưới đất. Quả khô ở trên cây. Quả khô hoặc quả rụng còn sót lại ở trên cây là nơi để mọt tiếp tục chuyển sang phá hại ở những năm sau.
2. 3. Mọt đục cành (Xyleborus mortati)
Loại mọt này phá hại chủ yếu trên cà phê trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, trước khi bước vào thời kỳ kinh doanh. Cần phát hiện kịp thời để cắt đốt những cành đã bị mọt (cành, lá đã có triệu chứng vàng, héo, khô) chú ý cắt cành sâu xuống phía dưới để tránh trường hợp còn sót ổ mọt ở phần cành còn lại. Sự tác hại của mọt mạnh nhất ở các tháng khô hạn, tuy vậy ngay từ cuối mùa mưa đầu mùa khô đã có thể xuất hiện lẻ tẻ các cành bị mọt (tuy ít nhưng phải phát hiện cắt đốt kịp thời), nếu làm chậm nguồn mọt sẽ bay ra tiếp tục phá hại những cây hay những lô ở xung quanh. Có thể dùng các loại thuốc và nồng độ như đối với mọt đục quả để phun phòng trừ mọt đục cành vào những vùng bị nặng.
2.4. Sâu đỏ hay sâu hồng (Zeuzea coffea)
Sâu này thường đục vào thân hay cành cà phê trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. Mỗi cây hay cành chỉ có một con sâu non đục vào trong, khi sâu non đầy sức có màu đỏ hay hồng, khi phát hiện thấy cây bị sâu cần bẻ, chẻ diệt sâu kịp thời, phần gốc cây còn lại sẽ phát sinh các thân mới thay thế thân cũ.
2.5. Sâu đục thân mình trắng thường gọi là sâu Bore (Xylotrechus quadripes Chev.):
Sâu này chỉ phá hoại ở cà phê chè. Triệu chứng cây bị hại: Trên thân có những đường lằn (gờ) nổi lên theo đường vòng, vỏ bị nứt nẻ, có những lỗ đục khi thành trùng đã chui ra, đọt lá xanh đậm, phiến lá biến dạng. Cây bị nặng lá vàng héo rồi chết.
Ở miền Bắc sâu này gây tác hại nghiêm trọng mang tính chất hủy diệt đối với các vườn cà phê nếu thiếu các biện pháp phòng trừ tích cực. Ở miền Nam, sâu này cũng xuất hiện và gây tác hại như ở Đak Lak, Lâm Đồng… Người ta còn gọi là sâu của vùng châu Á. Tại châu Mỹ và châu Phi chưa thấy xuất hiện loại sâu này. Trên cơ sở điều tra nắm chắc các lứa phát sinh của sâu trong một năm, đặc biệt là giai đoạn sâu trưởng thành bay ra đẻ chứng rộ, các tập tính của sâu để quyết định các biện pháp phòng trừ thích hợp. Biện pháp hóa học có hiệu quả rất tốt: Dùng hỗn hợp thuốc 666 nồng độ 6% hay 12% bột thấm nước với đất sét, phân trâu bò, nước, quậy đều thành một dịch lỏng quét lên thân cây từ gốc lên ngọn, ở nơi sâu phá hại nặng còn quét lên cả các cành lớn theo tỷ lệ pha chế như sau:
Thuốc 666 6% 1 – 2 phần.
Phân trâu bò tươi 5 phần.
Đất sét 10 phần.
Nước lã 15 phần.
(phân trâu bò là chất phù trợ bám dính)
Tại miền Bắc một năm quét 2 lần:
Lần thứ nhất: vào tháng 4 – 5.
Lần thứ hai: vào tháng 10 – 11.
Có thể dùng Boremua để phun lên thân cây với nồng độ 4% để diệt trứng và sâu non mới nở còn nằm ở phần vỏ. Biện pháp cơ giới là cắt đốt kịp thời những cây bị sâu nặng để diệt nguồn sâu ở bên trong kể cả những cây bị chết khô ở trên lỗ (sâu này có khả năng hoàn thành vòng đời trong cây cà phê đã khô). Trồng cây bóng mát cũng là một trong những biện pháp có tác dụng hạn chế tỷ lệ và mức độ bị hại của cây bị sâu. Sử dụng giống thấp cây như Catimor hoặc tạo hình để cây cà phê có bộ tán che kín thân cũng hạn chế được tác hại của sâu.
2.6. Sâu gặm vỏ: (Dihamus cervinus)
Đây là loại sâu thuộc bộ cánh cứng, họ xén tóc, đẻ trứng ở phần gốc đặc biệt là thời kỳ cây ở tuổi kiến thiết cơ bản. Triệu chứng: Phần vỏ và phần gỗ ở dưới gốc bị sâu gặm, thường có đường tròn theo chu vi thân. Cây bị hại lá biến vàng, nếu nặng thì héo chết. Cần điều tra để biết được thời kỳ đẻ trứng của sâu để có biện pháp phòng trừ kịp thời. Dùng thuốc 666 trộn với phân bò, đất sét để quét lên bảo vệ phần gốc của cây. Có thể dùng băng nylon cuốn xung quanh gốc để bảo vệ. Loại sâu hại này mới chỉ xuất hiện ở vùng Tây Bắc.
2. 7. Rệp sáp: (Pseudococcus spp.)
Một số loại rệp gây tác hại ở vùng cuống quả và vùng rễ của cà phê. Rệp sáp có hình dạng bầu dục, trên thân có phủ một lớp sáp trắng xám mịn. Nếu rệp sáp gây tác hại ở vùng cuống quả sẽ làm cho quả phát triển chậm, quả nhỏ, nếu bị nặng sẽ dẫn tới chùm quả bị khô hoặc làm chết cả cành. Nếu rệp sáp tấn công vào bộ rễ sẽ làm cho cây sinh trưởng chậm, yếu, nếu bị nặng có khả năng làm cho cây bị chết. Trong sản xuất cần có định kỳ kiểm tra phần cổ rễ ở dưới mặt đất (đào sâu xung quanh cổ rễ sâu 10 cm) để phát hiện kịp thời sự xâm nhập gây tác hại của rệp. Khi thấy có rệp sáp xuất hiện cần dùng các loại thuốc như Methyl parathion, Tinox BI-58 pha với nồng độ 0,1% – 0,2% để phun phòng trừ hoặc tưới gốc cây bị bệnh. Các loại thuốc mới có hiệu lực phòng trừ rệp sáp tốt là: Suppracid 40 BC 1,5%, Dimecron 100DD 1,5 – 2%, Carbicron 1% (có thêm 1%o dầu lửa làm chất thấm dẫn).
Thuốc hạt, bột xử lý rắc ở gốc: Basudin 3H, Sevidol 6H, Karphos 2%, Sunithion 5W.P, Oncol 25W.P, lượng dùng từ 10 – 30 g/gốc. Phương pháp xử lý: Đào xung quanh phần dưới cổ rễ có độ sâu 10 cm, tưới thuốc ngay, sau lấp đất lại. Đối với thuốc bột cũng xử lý vào vị trí như đối với thuốc nước (nếu làm không đồng thời thì kiến sẽ tha rệp đi nơi khác nên việc xử lý ít tác dụng).
3. PHÒNG TRỪ CỎ DẠI
Đối tượng cỏ dại gây tác hại lớn nhất đối với vườn cà phê đặc biệt trong thời kỳ kiến thiết cơ bản là cỏ tranh (Imperata cylindrica).
Để diệt trừ loại cỏ này phải áp dụng một loạt các biện pháp tổng hợp như: cơ giới, canh tác, hóa học. Điều cơ bản là đất trước khi trồng cà phê phải được khai hoang kỹ để diệt trừ nguồn cỏ tranh ngay từ đầu (cày sâu, bừa kỹ, lượm sạch thân ngầm của cỏ tranh). Sau khi trồng mới phải tiến hành trồng cây che phủ đất bằng các cây phân xanh, đậu đỗ, dùng cày bừa để diệt tiếp thân ngầm ở giữa các hàng cà phê. Ở trên hàng hay ở xung quanh hố cà phê dùng cuốc để đào, nhổ trong mùa mưa để diệt thân ngầm. Nguyên tắc chung là diệt liên tục bằng biện pháp cơ giới, canh tác và thủ công như đã trình bày ở trên. Khi cần thiết có thể áp dụng biện pháp phòng trừ bằng thuốc hóa học. Dùng thuốc Dalapon (omyden) với lượng thuốc từ 10 – 15 kg pha trong 600 lít nước để phun lên cỏ tranh ở giai đoạn cỏ còn non mới cao từ 20 – 25 cm. Sau khi phun nếu cỏ tranh còn tái sinh thì tiếp tục phun lần thứ 2 với nồng độ thuốc như trên. Chú ý khi phun không để giọt thuốc bắn vào làm cháy lá cà phê.
Nơi có nhiều cỏ gấu (Cyperus rotundus)
Ngoài biện pháp canh tác như cày bừa, rồi trồng xen che phủ đất cây đậu đỗ còn có thể dùng thuốc 2,4-D với liều lượng từ 3 – 4 kg pha trong 600 lít nước để phun diệt trừ vào lúc cỏ còn non (chưa ra hoa).
Đối với một số cỏ khác như: cỏ thẹn (mimosa), cỏ mỹ (grass johnson), cỏ bạc hà. v.v … thì dùng máy phát diệt cỏ một vài lần trong mùa mưa. Vào cuối mùa mưa đầu mùa khô cần làm cỏ trắng ở trên hàng sau đó lấy nguyên liệu tại chỗ để tủ gốc giữ ẩm.
V. CHẾ BIẾN VÀ BẢO QUẢN CÀ PHÊ
Phẩm chất và hương vị cà phê phụ thuộc vào mấy yếu tố chính sau đây: giống, khí hậu, độ cao so với mặt biển, độ phì của đất và chế độ bón phân, độ chín khi thu hái, kỹ thuật chế biến và chế độ bảo quản. Thông thường có hai phương pháp chế biến:
– Phương pháp chế biến ướt.
– Phương pháp chế biến khô.
Ngoài ra, còn có phương pháp trung gian là nửa khô hay nửa ướt.
– Phương pháp chế biến ướt gồm các công đoạn: sát tưới loại bỏ phần vỏ thịt sau lên men hay sát bỏ lớp vỏ nhớt bám ở xung quanh vỏ trấu, ngâm rửa, ngâm rửa rồi đem phơi.
Phương pháp chế biến khô: sau khi thu hoạch đem phơi cả quả trên sân, không qua khâu sát tươi.
– Phương pháp nửa khô nửa ướt: Cà phê đem sát tươi còn lẫn cả vỏ quả đem phơi không qua công đoạn lên men và ngâm rửa. Sơ đồ chế biến và sản xuất cà phê nhân sống theo các công đọan dưới đây:
Khi thu hoạch chỉ hái những quả chín, không hái cả quả xanh, quả còn non. Muốn có cà phê nhân để xuất khẩu tốt, tỷ lệ quả chín khi thu hái phải đạt trên 95%.
Tốt nhất là cà phê hái ngày nào chế biến ngay trong ngày đó. Quả còn lại không ủ thành đống lâu quá 24 giờ. Nơi nhận quả cà phê để chế biến phải sạch sẽ, không úng nước. Cà phê thóc hay quả cà phê có thể phơi trên sân gạch, sân xi măng, trên dàn, nong, nia, cót. Thời gian đầu không phơi dày hơn 5-7 cm. Hàng ngày cào đảo nhiều lần để cho khô đều. Ban đêm cần cào lại thành từng luống có che đậy để tránh sương ướt và mưa. Cà phê khi đã khô đưa vào kho bảo quản khi ẩm độ trong hạt không quá 13%. Trong kho bảo quản phải thông thoáng bằng luồng không khí tự nhiên hay quạt gió. Ngoài biện pháp chủ yếu để phơi khô cà phê ở nước ta là sử dụng ánh nắng mặt trời còn có thể làm khô cà phê qua các lò sấy bằng nhiên liệu củi đốt hay dầu. Cà phê chè nhất thiết phải được chế biến theo phương pháp ướt.
Cà phê là một sản phẩm dùng để chế ra loại nước uống cao cấp. Để cấu tạo thành nhân của cà phê theo những kết quả phân tích người ta thấy có tới 670 hợp chất hữu cơ hợp thành trong đó có nhiều hợp chất tạo nên hương thơm của cà phê. Do vậy, các khâu thu hái, chế biến, phơi sấy, bảo quản cà phê có một vị trí hết sức quan trọng. Các công đoạn trong thu hoạch, chế biến, phơi sấy và bảo quản có mối liên kết khăng khít với nhau.
Tất cả các công đoạn ấy đều phải được thực hiện một cách nghiêm túc thì mới có khả năng tạo ra mặt hàng thương phẩm có giá trị cao trên thị trường quốc tế. Chất lượng cuối cùng qua khâu chế biến sẽ là bước quyết định cho việc nâng cao lợi tức của những người sản xuất kinh doanh cà phê.
Nguồn: Sưu tầm
Discussion about this post