Nuôi tôm VietGAP đã hạn chế dịch bệnh và giảm thiểu rủi ro, từ đó mang lại hiệu quả cao cho người nuôi.
Trong 2 năm 2014, 2015 mô hình nuôi tôm VietGAP triển khai ở 12 tỉnh, thành với diện tích 40 ha, 120 hộ tham gia nhưng không hộ nào có tôm bị dịch bệnh, lợi nhuận thu được bình quân 800 triệu đ/ha/vụ.
Năm 2015, mặc dù nắng nóng, độ mặn cao, dịch bệnh tiếp diễn phức tạp, nhưng do áp dụng đúng quy phạm VietGAP, mật độ thả 80 con/m2, cỡ giống P12 nên tỷ lệ sống của tôm rất cao, bình quân 80%. Các hộ đã thu hoạch tôm nuôi 90 ngày đạt cỡ 60 con/kg, năng suất trung bình 10,6 tấn/ha.
Mặc dù năm nay giá bán tôm xuống thấp hơn năm ngoái 25-30%, nhưng người nuôi vẫn có lãi trung bình 600 triệu đ/ha/vụ, hầu hết mô hình khi đánh giá tiêu chí VietGAP đạt thấp nhất 80% .
Vừa qua, Tổng cục Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã kiểm tra 10 hộ tham gia nuôi tôm VietGAP tại quận Dương Kinh (Hải Phòng) và huyện Giao Thủy (Nam Định).
Điều thú vị là cả 10 hộ tham gia mô hình đều không có tôm bị dịch bệnh, thời gian nuôi 76 ngày, có hộ đã thu hoạch đạt trên 10 tấn/ha, cỡ tôm đạt trung bình 60 con/kg, được thương lái đặt mua với giá 130.000 đ/kg.
Tại phường Hải Hòa, TP Móng Cái (Quảng Ninh) có 4 hộ xây dựng mô hình nuôi tôm VietGAP đều không bị dịch bệnh, dù thả giống đúng lúc cả vùng bị dịch.
Hiện đã có có hộ xuất bán tôm thương phẩm. Trong quá trình nuôi, không hộ nào sử dụng kháng sinh, hóa chất, chỉ dùng chế phẩm sinh học để xử lý màu nước.
Theo các hộ tham gia mô hình tại Giao Thủy, sau 56 ngày tôm đạt 130 con/kg, trong khi tôm ngoài mô hình là 160 con/kg. Từ kết quả trên cho thấy nuôi tôm VietGAP đã hạn chế dịch bệnh và giảm thiểu rủi ro và mang lại hiệu quả cao.
Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả cao theo VietGAP
Theo kinh nghiệm của các hộ nuôi, để thực hiện nuôi tôm theo quy trình VietGAP, không sử dụng kháng sinh, hóa chất trong suốt quá trình nuôi tôm, các bước thực hiện gồm có:
Bước 1: Chuẩn bị nước vào ao lắng (ao lót bạt):
Sau khi đã chuẩn bị ao chu đáo (tháo cạn, rửa sạch bạt, phơi khô, khử trùng), chăng lưới ngăn chim và lưới ngăn cua, còng, cáy… người nuôi lấy nước vào qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ ấu trùng, tôm, cua, còng cáy, cá tạp, côn trùng…(chờ con nước sạch mới lấy), dùng CLO để khử trùng nước, liều lượng 2kg/1000m³ nước, quạt nước liên tục trong 1 ngày rồi dùng tiếp BKC, liều lượng 2lít/1000m³ nước, 2 ngày sau dùng vôi (CaC03) liều lượng 70kg/1000m³, hòa tan té xuống ao để ổn định pH, dùng EDTA liều lượng 5kg/1000m³ nước để khử kim loại nặng và ổn định độ kiềm.
Bước 2: Gây màu nước tại ao nuôi:
Khi đã đưa nước vào ao nuôi, tiến hành gây màu nước theo công thức 4:2:1 (cứ 4 kg đường mật + 2 kg thóc xay + 1 lít E.M), ủ với 40 lít nước, thời gian 4-5 ngày, sau khi đã lên men, té xuống ao để gây màu nước với liều lượng 400 lít/1000m³ nước, té liên tục trong 3 ngày là màu nước lên đẹp, đảm bảo cho tôm phát triển tốt.
Bước 3: Chọn và thả tôm giống:
Chọn tôm giống: Thả tôm giống P15, tôm có màu sắc tươi sáng, đều cỡ, khỏe mạnh, đã qua kiểm dịch của cơ quan chuyên môn, tôm âm tính về các bệnh: MBV, đốm trắng, đầu vàng, IMNV, gạn tụy…
Thả đúng mùa vụ, chọn thời điểm mát để thả (chiều tối), mật độ 100 con/m².
Bước 4: Chăm sóc, quản lý:
Cho ăn: Chọn loại thức ăn có độ đạm từ 32-38%, có nhãn mác rõ ràng, có uy tín, cho ăn 4 đúng (đúng chất lượng, đúng số lượng, đúng thời gian, đúng địa điểm), kích cỡ thức ăn theo độ tuổi của tôm. Ngày cho ăn 4 lần (sáng, gần trưa, đầu giờ chiều, chiều tối), đặc biệt phải chú ý dùng quạt nước 24/24 giờ để tôm đủ oxy. Sau khi nuôi được 3 ngày bắt đầu dùng chế phẩm sinh học E.M, liều lượng 1 lít/1000m³ nước, định kỳ 5-7 ngày bón một lần (tùy theo màu nước để quyết định bón E.M, nếu màu nước đậm đặc không bón nữa). Nếu nước xuất hiện nhiều tảo lam thì tiến hành thay nước (1/3 nước trong ao), chú ý phải thay vào ban đêm, sáng hôm sau bón tiếp chế phẩm sinh học E.M. Khi nhiệt độ cao hơn 34 độ C và thấp hơn 24 độ C, giảm 20% thức ăn. Trong ao nuôi tôm, chế phẩm sinh học (CPSH) rất hữu ích vì CPSH phân hủy hết các chất hữu cơ, thức ăn thừa, khí độc…làm sạch đáy ao, ổn định màu nước, ức chế các vi sinh vật có hại, thúc đẩy các vi sinh vật có lợi phát triển, tăng sức khỏe cho tôm, do đó tôm lớn nhanh, ít bệnh, hiệu quả cao hơn hình thức nuôi khác rất nhiều.
Chăm sóc: trong quá trình nuôi, người nuôi cần luôn quan sát màu nước và sức khỏe tôm để xử lý hàng ngày (quyết định lượng thức ăn, chế phẩm sinh học, bổ sung nước…). Thường xuyên bổ sung khoáng vào môi trường nước và thức ăn cho tôm, ngoài ra còn phải cho tôm ăn thêm vitamin C, bổ gan, cho ăn liên tục từ khi tôm được 20 ngày tuổi cho đến lúc thu hoạch. Chi phí sử dụng chế phẩm sinh học và các chất bổ sung khoảng 10.000 đồng/kg tôm thương phẩm.
Quản lý môi trường nước: Hàng ngày người nuôi cần tiến hành đo các yếu tố như nhiệt độ, pH, DO, NH3, độ mặn, độ kiềm để xử lý kịp thời…
Discussion about this post